Bài 1:
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác  phẩm  xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là  hiện thân của  nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ,  người đọc được cười từ  đầu đến cuối, cười một cách hả hê, thoải mái.  Nhưng cũng với Số đỏ người đọc  phải phẫn uất mà kêu lên: Trời, cái xã  hội gì, cái lũ người gì mà giả dối, bịp  bợm đến thế, bất nhân bạc ác  đến thế. 
 
 Đọc Số đỏ, người ta nghĩ: đây đúng là  đất sở trường của Vũ Trọng  Phụng, đây thật là ngón võ sở trường của Vũ Trọng  Phụng. Trong tác phẩm  này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kỳ lợi hại trong  một chương,  chương XV, có nhan đề là Hạnh phúc của một tang gia. 
 
 Ngón võ ấy là ngón gì? Ấy chính là  nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra  thì không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn.  Mâu thuẫn vốn nó tự có  trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ, với cái nhìn sắc  như dao của  mình, với cái tài của một nhà trào phúng bẩm sinh, đã nhận ra nó,  chỉ  nó ra, nâng nó lên cho cả bàn dân thiên hạ nhìn thấy, để cười, để căm  ghét  và khinh bỉ nó. 
 
 Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ  Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu  thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà  cũng hạnh phúc à? Tang  gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết, cái chết  của người thân  gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ  đọc  nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra, bịa ra một cách ác ý  sự  kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó  không phải là ác  ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của  một xã hội mà nhà văn  muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mặt.  
 
 Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông  già. Ông già ấy là cha, là ông  của một gia đình đông đảo và “đáng kính” của một  xã hội “thượng lưu”.  Cả gia đình ấy đã nhao lên, “nhao lên mỗi người một cách”.  Nhưng nhao  lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng… trước cái chết của người thân   chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì … hạnh phúc! “Cái chết kia đã  làm cho  nhiều người sung sướng lắm”. Câu văn tưởng chừng ngược đời kia  của Vũ Trọng  Phụng đã thâu tóm cả một thứ “thế thái nhân tình”. 
 
 Nhận định ấy không hề là một sự bịa  đặt cho vui của nhà văn. Sự thật  rành rành rất cụ thể này đây: Ông phán mọc sừng,  sau cái chết của ông  bố vợ, bỗng thấy cái “sự mọc sừng” của mình đột nhiên tăng  giá lên thêm  vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng “mơ màng đến cái lúc mặc đồ  xô  gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để được người ta ngợi  khen  “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…”. Còn ông Văn Minh,  cháu đích tôn,  nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh, bởi vì,  với cái chết của ông  nội, ông ta thấy rằng cái tờ di chúc đã được thực  hiện, nghĩa là cái ao ước cho  ông nội mình chết đi, để chia của, đã  trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng  theo đúng cách của một phụ nữ  tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội  chồng một dịp may hiếm  có để có thể mặc “tang phục tân thời”, đồ xô gai tân thời,  “dernìeres  créations” của tiệm may Âu Hóa! 
 
 Tâm địa cái lũ người kia tưởng đến thế  đã là tởm. Nhưng chưa hết. Đến  đây, Vũ Trọng Phụng còn đầy mâu thuẫn lên một  tầng nữa. Bởi bọn con  cháu bất hiếu bất mục nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình  là những kẻ  có hiếu có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của   nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ  ra. Những  kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để  bày tỏ lòng hiếu  thảo, nghĩa tiếc thương đối với người đã chết! Chính  vì thế, ngòi bút của Vũ  Trọng Phụng đã tập trung sức mạnh, như có thần,  trong phần thứ hai của chương  sách, nghĩa là phần tả cảnh đám ma. 
 
 Trước hết, nhà văn tả cô Tuyết, một cô  gái hư hỏng như chỉ “hư hỏng  một nửa”, một thứ thiếu nữ đang rất tiêu biểu trong  xã hội “tân thời  ngày ấy”. Tuyết mặc bộ tang phục “ngây thơ” nửa kín nửa hở, với  nét mặt  có “vẻ buồn lãng mạn” (vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người   chết) đã gây một hiệu quả lạ lùng: các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ  nhìn vào  vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động  trước nỗi buồn  tang tóc vậy. 
 
 Đám ma thật to, to đến nước “có thể  làm cho người chết nằm trong quan  tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Người ta  đã lợi dụng đám ma đến mức  cao nhất để khoe giàu khoe sang và khoe lòng hiếu  thảo giả vờ của  mình! Nếu như mong muốn của tất cả đám con cháu của người chết  kia là,  trong đám ma này, đưa sự giả dối, bịp bợm đồng thời cũng là sự tàn nhẫn,   bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn, thì quả thật chúng  đã đạt được  một cách trọn vẹn, xuất sắc. 
 
 Nhưng chưa hết đâu, dưới mắt Vũ Trọng  Phụng, cái lũ người giả dối  không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy đâu. Chúng đông  đảo lắm. Chúng là  toàn xã hội. 
 
 Bắt đầu là đại diện bộ máy cảnh sát,  nghĩa là đại diện của Nhà nước:  thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói đến  vẻ mừng rỡ hí hửng của  hai thầy khi được nhà chủ đám ma thuê làm người giữ trật  tự. Lí do của  sự mừng rỡ duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm, và  đang  “buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nơ”. Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, lớp   “tinh hoa” của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi long trọng, ngực đeo  đầy đủ thứ  “bội tinh”. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải  vì tưởng nhớ đến  người đã khuất, cũng không vì tiếng kèn đưa ma não  ruột bi ai, mà chỉ vì… được  ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò  trong làn áo mỏng của cô Tuyết. 
 
 Sự xuất hiện của hai tên đại bịp trong  dịp này lại khiến người ta “cảm  động” đến cực điểm: Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng  Phú. Vì sao? Vì với sáu  chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ, hai kẻ này đã làm  cho đám ma thêm  long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ người lương thiện  nhất  trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hãi   lên. 
 
 Những người đi đưa đám thật đông đảo.  Bằng điệp khúc “Đám cứ đi…” được  nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói: đám  ma thật là to, thật là  đông, thiên hạ tha hồ màchiêm ngưỡng để thấy rõ sự to tát  của nó.  Nhưng cứ tìm thử xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang   thực sự “đi đưa đám”, nghĩa là thực sự có chút tiếc thương đối với người  chết mà  họ đang đưa tiễn? Không có ai cả. Tất cả mọi người đàn ông  cũng như đàn bà, già  cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh,  nhưng đều đang nói một điều gì  đó, làm một điều gì đó, nghĩ một điều gì  đó không dính dáng đến người chết và  đám ma cả. Trai thanh gái lịch  thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen  tuông nhau, hẹn hò nhau…  nhưng tất cả đều “bằng vẻ mặt buồn rầu của những người  đi đưa ma”. 
 
 Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ.  Ta sẽ nghĩ thế. Nhưng với Vũ  Trọng Phụng, có nghe được những lời mà bọn họ nói  với nhau mới thấy sự  vô liêm sỉ ấy còn trơ tráo đến mức nào. Và nhà văn đã đưa  ra một số lời  ấy. 
 
 “Đám cứ đi…” nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy  không hề khép lại, nó còn kéo dài. 
 
 Đến lúc đám không “cứ đi” nữa mà dừng  lại để hạ huyệt. Vũ Trọng Phụng  còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy  cảnh đưa đám này lên  đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ  từng người  một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta..  chụp  ảnh. Chi tiết thứ hai là ông phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ   nhất trong gia đình này, đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy,  giữa lúc oằn  người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ  món tiền năm đồng vì đã  có 
 công gọi ông ta là “người chồng mọc  sừng” (chính là cái công gián tiếp  khiến cho ông già đã chết). Thật là những  kịch sĩ thượng hạng của  những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách  trọn vẹn và sắc  sảo chương sách nói về sự giả dối của người đời. 
 
 Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong  chương sách là chuyện thật ư? Lẽ  nào… Những điều ấy toàn là hư cấu ư? Nhưng  những điều ấy đều hợp lí lắm  mà, và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng  Phụng đúng là sắc  như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống  cứ hiện  ra lồ lộ trên đó nổi lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Bài 2:

.
