| 
		
		 
			
				22-09-2012, 04:24 PM
			
			
			
		 
	 | 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Cảm nhận về bài thơ Tỏ Lòng
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một  mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân  tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông,  nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương,  Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử. 
  
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được  các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói  của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch  tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” ( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão,  “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa  chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. 
  
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm  thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ  Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”. 
  
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến  công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự  hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão. 
  
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu 
  
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu 
  
Nam nhi vị liễu công danh trái 
  
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu. 
  
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên  ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu  thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang  sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó  thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang,  hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu  hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông  pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý. 
  
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với  sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù  xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào,  kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng  chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể  hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng  tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân  tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong  thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức  mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi  nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá  trong nền văn học dân tộc: 
  
-“Thuyền bè muôn đội; 
  
Tinh kỳ phấp phới 
  
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú) 
  
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát  lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát  vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu  thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho  trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta  cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những  tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần  trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước  và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của  mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng  thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ  công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã: 
  
“Công danh nam tử còn vương nợ 
  
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” 
  
“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được  làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công.  Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá  nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện  đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe  chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên  chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông,  nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết,  làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường  tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông). 
  
“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng  tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng  thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là  khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí  Đông-A”. 
  
  
  
 ST 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	
	
  |