Trong dòng thơ ca về anh bộ đội cụ Hồ, Đồng chí của  Chính Hữu ghi nhận một thành công xuất sắc. Giữa lúc chưa phải mọi nhà  thơ đã bắt trúng ngay mạch đập của cuộc sống kháng chiến ở những năm  đầu, Đồng chí (1948) đã cất lên một tiếng nói mới, chân thực về vẻ đẹp  của người Vệ quốc quân, đã góp phần làm sáng tỏ bản chất và sức mạnh của  những người cầm súng.
	 		    	 		Quê hương anh nước mặn đồng chua
 	 		Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
 	 		Anh với tôi đôi người xa lạ
 	 		Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
 	 		Súng bên súng, đầu sát bên đầu
 	 		Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
 	 		Đồng chí!
 	 		Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
 	 		Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
 	 		Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
 	 		Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
 	 		Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
 	 		Áo anh rách vai
 	 		Quần tôi có vài mảnh vá
 	 		Miệng cười buốt giá
 	 		Chân không giày
 	 		Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
 	
 	 		Đêm nay rừng hoang sương muối
 	 		Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
 	 		Đầu súng trăng treo
 	 		(1948)
 	 		Đồng chí  là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ.  Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy  tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình  đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu  giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.
 	 		 
  	 		Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí  phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây,  nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những đồng đội  thân thiết với mình - để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm  trạng, tình cảm của họ.
 	 		Quê hương anh nước mặn đồng chua
 	 		Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
 	 		Mối  quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những  người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả,  gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và  giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó  trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được  Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:
 	 		Lũ chúng tôi
 	 		Bọn người tứ xứ
 	 		Gặp nhau hồi chưa biết chữ
 	 		Quen nhau từ buổi một, hai
 	 		Súng bắn chưa quen
 	 		Quân sự mươi bài
 	 		Lòng vẫn cười vui kháng chiến…
 	 		Từ  “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến  “đêm rét chung chăn”- đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng  thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến  đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết  được nhiều hình ảnh sinh động:
 	 		Súng bên súng, đầu sát bên đầu
 	 		Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
 	 		Chính  Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới.  Chữ “tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây.  Thực chất của mối tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng  chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi  tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai  phần của bài thơ.
 	 		Có  thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang  nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với  nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn  hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ  thể. Trước Cách mạng thành công – ở thời kì giác ngộ lí tưởng cộng sản,  theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm  đầu kháng chiến gian nan – khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời  kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc  quyết sinh” – ở những năm tháng, những thời đIểm ấy, nghĩa đồng bào,  đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí”  chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng  này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân – vốn  là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng  và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta  thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí  mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ  “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một  mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của  tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ  nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ  lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng  đội:
 	 		Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội
 	 		Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
 	 		Đồng đội ta
 	 		Là hớp nước uống chung
 	 		Nắm cơm bẻ nửa
 	 		Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
 	 		Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
 	 		Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
 	 		Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết…
 	 		(Giá từng thước đất)
 	 		Đó  là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) - ở buổi đầu  kháng chiến – cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng  trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một  dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.
 	 		Vừa  dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời  đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình  (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả  phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông,  gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí – ấy là gửi lại ruộng nương, từ  biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất  nước. Đồng chí– ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run  người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí – ấy là sự sẻ chia và động viên  nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:
 	 		Áo anh rách vai
 	 		Quần tôi có vài mảnh vá
 	 		Miệng cười buốt giá
 	 		Chân không giày
 	 		Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
 	 		Tình  đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những  chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn  bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau dó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu  đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi  (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa  lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần  tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một  nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân,  trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm”  của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người  cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.
 	 		Nếu  đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại  càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ  cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi  câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần  lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra – mở ra  biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:
 	 		Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
 	 		Dường  như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương  nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn,  nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức  đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của  mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm  lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.
 	 		Chính  quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của  tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:
 	 		Đêm nay rừng hoang sương muối
 	 		Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
 	 		Đầu súng trăng treo
 	 		Ba  câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu -  đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó  là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận:  “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh  Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu  súng trăng treo”.
 	 		Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo.  Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của  Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ  đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng – thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo  – hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết  hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong  sáng,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao  cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ  hi sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và  nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm.  “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực  vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà  thật khó phân tích hết bằng lời.
 	 		Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí,  Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ  xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó  chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với  “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với  chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày  và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí  cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi  nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình  ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài  lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |