Trong bóng tối mịt mờ chốn lao tù, dường như sự sống  đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa những âm thanh  khô khốc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn  thức, rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố Hữu,  bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết  của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn  khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”. 
	 		    	Nhan  đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi  chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người  ta không còn thấy bóng  dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ  đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn  về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt  Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống - mùa hè về. Lúc này, khi  con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài,  người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì  vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp  bên ngoài: 
	 
	“Khi con tu hú gọi bầy 
	Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần 
	Vườn râm dậy tiếng ve ngân 
	Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào 
	Trời xanh càng rộng càng cao 
	Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.” 
	 
	Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm  thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt  trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù  hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay  là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường  chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông luá chín,  hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve  ngân...  
  	Phải  có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống  sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động  đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực,  tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các  giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng  gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ  đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen  thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu: 
	 
	“Đây từng ô mạ xanh mơn mởn 
	(...) 
	Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!” 
	 
	Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa  ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ  hôi kết tinh thành hạt thóc. 
  	Với  một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu  nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” (Tâm tư  trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng  đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không  gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu,  vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ  từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi: 
	 
	“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ 
	Mặt trời chân lí chói qua tim” 
	 
	đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất  hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các  cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu  nhất, xa nhất, cao nhất: 
	 
	“Trời xanh càng rộng càng cao 
	Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” 
	 
	Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô  cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ - chiến sĩ có  phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc  này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có  được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con  người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ  hết, và mất tự do. 
	 
	Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà  thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong  ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên  con đường tìm đến tự do. bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo  nức bật lên: 
	 
	“Ta nghe hè dậy bên lòng 
	Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!  
	Ngột làm sao, chết mất thôi 
	Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu” 
	 
	Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán  là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận  vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi  bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người  thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên  đường, tiếng gọi của tự do.  
  	Từ  trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo  nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những  hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những  vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê  hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự  do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm,  một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê  hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất  ức, ngột ngạt muốn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật  sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: “đạp  tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu  người cháy bỏng. 
	 
	Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời  thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì  vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn  ước nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng. 
	 
	“Khi con tu hú” là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh  mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn  dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu  con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |