Theo dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lui vào dĩ  vãng mịt mờ, để lại cho con người bao nỗi niềm tiếc nuối. Nhất là khi  những vẻ đẹp tài hoa một thời chỉ còn vang bóng. Cũng bắt nguồn từ cảm  hứng ấy, bài thơ Ông Đồ thể hiện một hoài niệm day dứt, thương cảm cho  một giá trị tinh thần sắp tàn lụi. Bài thơ là tấm gương phản chiếu cho  hồn thơ giàu lòng thương người và hoài cổ của Vũ Đình Liên. 
	 		     
  	Được  ra đời trong phong trào Thơ mới, nhưng bài thơ thoát khỏi hai trục cảm  xúc chính thời bấy giờ là tình yêu và thiên nhiên. Trong lúc những nhà  thơ lãng mạn đang chìm đắm trong cái tôi cá nhân, muốn vẽ nên hiện thực  mà họ muốn có, say sưa trong mộng ảo thì Vũ Đình Liên – một trí thức tây  học trong lúc sững người, ngoảnh đầu quay lại phía sau đãø bất chợt  nhận ra “cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời”. Ông đồ – hình  ảnh cuối cùng của nền Nho học đã từng tồn tại trong suốt một ngàn năm  phong kiến Việt Nam.  
	 
  	Sự trượt dốc của nền Nho học đã kéo theo cả một lớp người trở thành nạn nhân đau khổ. Ông đồ của Vũ Đình Liên là một chứng tích cho một vẻ đẹp không bao giờ  trở lại. Là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người và vì thế chưa  mất đi hoàn toàn, nhất là đối với những con người có tâm trạng hoài niệm  cho vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao  quý không còn vị trí, phải ra tận vỉa hè, đường phố, đã trở thành một  món hàng… con người ta mới thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào  quang rực rỡ một thời. Tâm sự ấy đã được thể hiện trong bài thơ tạo nên  sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình: 
	 
	Mỗi năm hoa đào nở 
	Lại thấy ông đồ già 
	Bày mực tàu giấy đỏ 
	Bên phố đông người qua. 
	 
	Ở đó là những hình ảnh, ấn tượng đã hằn sâu trong kí ức của chàng thanh niên còn rất trẻ. Là sự tuần hoàn của hoa đào, của ông đồ,  của mực tàu, giấy đỏ tạo nên một nét riêng thiêng liêng của không gian  văn hoá dân tộc khi Tết đến, xuân về. Nhưng ta không khỏi chạnh lòng  trước cảnh ông đồ phải sống lay lắt trên con  đường mưu sinh của mình. Vẻ già nua đáng thương hay là đạo học sắp suy  tàn? Trớ trêu thay, nơi ông có thể níu giữ vẻ đẹp văn hoá, nơi ông có  thể kiếm sống lại là “bên phố đông người qua”. Hình bóng lẻ loi, cô độc  của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng. Trong dòng đời hối  hả trôi, hiện lên hình ảnh ông đồ đang gò trên từng con chữ tài năng và tâm huyết của một đời người ngay giữa chợ đời: 
	 
	Bao nhiêu người thuê viết 
	Tấm tắc ngợi khen tài 
	Hoa tay thảo những nét 
	Như phượng múa rồng bay. 
	 
	Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự  chống chọi vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên khi ngày  đã sắp tàn. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua một câu đối, một đôi chữ  Nho mới đau đớn làm sao. Trong từng người ấy, có ai thật sự cảm thấy xót  xa cho sự xuống cấp thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần  được đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất?  
  	Dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp  thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày Tết và nét chữ  “như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng,  được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhưng tránh sao khỏi cảm giác bẽ  bàng, sượng sùng? Nhưng cái danh dự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn  tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc: 
	 
	Nhưng mỗi năm mỗi vắng 
	Người thuê viết nay đâu 
	Giấy đỏ buồn không thắm 
	Mưcï đọng trong nghiên sầu. 
	 
	Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm: “Người thuê viết nay  đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng: “mỗi năm mỗi vắng”.  Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay  thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên,  thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ  phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại,  tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn.  Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân  nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh,  một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm  sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”,  “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Và càng đáng  buồn hơn, đến khổ thơ thứ tư thì còn lại cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh lạnh lẽo: 
  	Ông đồ vẫn ngồi đấy 
	Qua đường không ai hay 
	Lá vàng rơi trên giấy 
	Ngoài trời mưa bụi bay. 
	 
	Bằng hi vọng mong manh còn lại, chút gắng gỏi vì miếng cơm manh áo,ông đồ vẫn  kiên nhẫn ngồi đợi. Nhưng đáp lại sự đợi chờ vô vọng đó là những dáng  tấp nập qua lại của mọi người, hờ hững, quên đi sự hiện diện của ông.  Giữa cái ồn ào, náo động xung quanh là bóng dáng cô độc của ông đồ. Sự đối lập giữa ông đồ và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm. Giữa không gian đông người ấy, ông đồ vẫn  ngồi, bóng dáng trầm tư có khác chăng Nguyễn Khuyến trước kia “tựa gối  ôm cần lâu chẳng được”. Từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi trên giấy  cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám  ảnh, khiến cho con người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương  tri của mỗi người. Không gian hoang vắng đến thê lương. Bất chợt tôi lại  nghĩ đến câu thơ của Yến Lan trong Bến My Lăng: “Trăng thì đầy rơi vàng  trên mặt sách”. “Lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm  đẫm nỗi buồn. “lá vàng rơi”, cũng như số phận hẩm hiu của ông đồ đã đến hồi kết thúc: 
	 
	Năm nay đào lại nở 
	Không thấy ông đồ xưa 
	Những người muôn năm cũ 
	Hồn ở đâu bây giờ? 
	 
	Thực sự đến giờ bài thơ “chứa đựng cả một hệ vấn đề: bi kịch của sự gặp  gỡ Đông và Tây, sự suy vong và cáo chung của một thời đại, sự biến mất  vĩnh viễn của một lớp người”. Vòng tuần hoàn của đất trời vẫn tiếp tục,  nhưng bóng dáng của ônd đồ không còn nữa. Cảnh đấy, còn người ở đâu? Hoa  đào kia như một biểu tượng của dòng thời gian, của tạo hoá. Cái còn,  cái mất ám ảnh trong tâm trí mọi người. Ở đó là một niềm nhớ thương vời  vợi: 
	 
	Những người muôn năm cũ 
	Hồn ở đâu bây giờ? 
	 
	Khi bóng dáng ông đồ không còn, liệu nét chữ –  “hồn” của ông – còn chăng? Những tinh hoa của giá trị tinh thần đã hoàn  toàn mất hẳn? “Những người muôn năm cũ” là ông đồ,  là người thuê viết hay chính là thế hệ của lớp người mới trong đó có  chính nhà thơ? Dẫu là ai, câu thơ vẫn gợi lên một niềm ray rứt, ngậm  ngùi. Mạch đồng cảm của người xưa và người nay được nối liền: Sự chán  ngán cùng cực của ông đồ và nỗi lòng ân hận, tiếc nuối của lớp hậu sinh đã vô tình lãng quên thế hệ cha ông. 
	 
	Hỏi để đánh thức dậy trong tiềm thức sâu xa của mỗi người dân Việt  những nỗi niềm vọng tưởng, đánh thức dậy nỗi ân hận, day dứt nhưng cũng  đồng thời nhắc nhở mọi người đừng quên lãng đi quá khứ, lãng quên đi  lòng yêu nước và văn hoá dân tộc. Bởi lẽ, đó cũng là hồn nước, hồn  thiêng sông núi, là quốc hồn quốc tuý. Đánh mất đi hồn dân tộc có khác  chi là mất nước? 
	 
	Và có lẽ, Vũ Đình Liên không đến nỗi bảo thủ khư khư mực tàu giấy đỏ mà  quan trọng hơn đó là tình cảm gắn bó và trân trọng một lớp người tài  hoa, đáng kính của nhà thơ. Để rồi, trong tâm hồn ta bất chợt một lúc  nào đó lại vọng về tiếng bà ru cùng tiếng đua nôi kẽo kẹt: 
	 
	Chẳng ham ruộng cả ao liền 
	Chỉ ham cái bút, cái nghiên anh đồ. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |