Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ  Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào  Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết  đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân  thành và vô cùng sâu lắng. 
                     Ta  có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất  biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình  yêu  quê hương sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm  thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương  trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến  thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần  cù.
      Bài  thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên  tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng  chài ven biển: 
    Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới 
    Nước bao vây cách biển nửa ngày sông 
    Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng 
    Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
      Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương. 
      Còn  quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao  giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây. một khung cảnh làng  quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong –  gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn  và ánh sáng tràn ngập. 
      Bầu  trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến  là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi  vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu  con người trên những chiếc thuyền ra khơi:
      Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã 
    Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
      Nếu  như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh  lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như  con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm  vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ  “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng  dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt  huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư  thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:
      Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng 
    Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
      Từ  hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải  là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê  hương làng xómTế Hanh mới có thể viết được như vậy.Cánh buồm trắng vốn  là hình ảnh quen thuộc nay trở nên lớn lao và thiên nhiên.Cánh buồm  trắng thâu gió vượt biển khơi như hồn người đang hướng tới tương lai tốt  đẹp.Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh hồn của quê hương đang nằm  trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ mộng vừa hoành tráng,  nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật. 
      Ta  có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ  thể hơn mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính  là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao  nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân  chài đã được gửi gắm vào cánh buồm đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn  thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận,  giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên chiếc tàu nhỏ bé không  nhû nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên  của chính mình.
      Cả  đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể  hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự  phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi  một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:
      Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ 
    Khắp dân làng tấp nập đón ghe về 
    Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe 
    Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
      Những  tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi  động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống  trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng  yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn  thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả  công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là  những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong  đợi. 
      Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ: 
    Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng 
    Cả thân hình nồng thở vị xa xăm 
    Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm 
    Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
      Có  thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài  thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại  dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất  lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người  dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương  bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con  người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng  là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. 
      Nhà  thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi  của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con  thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng  thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri  vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân. Không phải người con  làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ  viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật cả  hồn mình để lắng nghe. Ở đó là âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới,  là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm  thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền.
      Có  lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn  nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu. Nét tinh  tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc,  không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”… Thơ Tế Hanh  là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế  giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con  thuyền lúc trở về bến…” 
    Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm  của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước :
      Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ 
    Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi 
    Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi 
    Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
      Nếu  không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê. ta  thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó  lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò. từ đó ta có thể nhận ra  rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện  hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nối nhớ quê hương thiết tha  bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng  mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là  màu cá bạc, là cánh buồm vôi. 
      Màu  của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu  nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào.  Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người  dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên  nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày  của người dân.
       
    Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày  sông, lung linh sóng nước , óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã  là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở “hoa niên” đến những ngày tập  kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm  của một người con xa quê:
      Tôi  dang tay ôm nước vào lòng 
    Sông mở nước ôm tôi vào dạ 
    Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả 
    Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông 
    Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng 
    Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến 
    Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển 
    Vẫn trở về lưu luyến bến  sông 
    (Nhớ con sông quê hương – 1956)
      Với  tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại  không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong  cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy. Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã  hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương  to như mảnh hồn làng”.“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương –  niềm tin và nỗi nhơ,ù trong tâm tưởng người con đấùt Quảng Ngãi thân yêu  – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ  với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác  hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế  Hanh”. 
 
Xem thêm: 
DOWNLOAD  
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |