Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh quan: 
Qua đèo ngang 
  
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà, 
  
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. 
  
Lom khom dưới núi tiều vài chú, 
  
Lác đác bên sông chợ mấy nhà. 
  
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, 
  
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. 
  
Dừng chân đứng lại trời non nước, 
  
Một mảnh tình riêng ta với ta. 
  
Tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19. Quê ở làng  Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia  đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia  chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung  trung giáo tập”. 
  
Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan. 
  
Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo  Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn  Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”. 
  
Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. 
  
Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng  trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài  thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà  của người lữ khách - nữ sĩ. 
  
Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng  quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng bình, vào  thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời  đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi  buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu  đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ  giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc  động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước: 
  
“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. 
  
Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen”  với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng. 
  
Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị: 
  
“Lom khom dưới núi tiều vài chú, 
  
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. 
  
Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con  người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom”  vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư,  tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà  chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cáilèu chợ miền núi, sở dĩ nữ  sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là  cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế  tà. 
  
Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi  bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm  hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách.  Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im  lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật  lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài  tình: 
  
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, 
  
Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”. 
  
Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng’  nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ  con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha,  trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhó kinh kỳ Thăng  Long, nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào  kể xiết! 
  
Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn  chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn  cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát  cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh  mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé  của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa  vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là  tâm trang nhớ quê, nhớ nhà: 
  
“Dừng chân đứng lại trời non nước, 
  
Một mảnh tình riêng ta với ta”. 
  
“Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế  giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh  sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt.  Phứp đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám  phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất  nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng  nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là  bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |