1. Vích-to Huy-gô (1802 -1885) là nhà thơ, nhà  tiểu thuyết, nhà  soạn kịch lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Cha ông là một  tướng lĩnh cách  mạng, mẹ ông là người có tư tưởng bảo hoàng. Ông ảnh  hưởng tư tưởng của  mẹ, nhưng sau rời bỏ và trở thành chủ soái của dòng  văn học lãng mạn  tích cực. 
 
Tác phẩm chính : về thơ có các tập Lá thu (1831), Trừng phạt (1853), Mặc   tưởng (1856) ; về tiểu thuyết có Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (1831), Những   người khốn khổ (1862) ; về kịch có Héc-na-ni (1830),... 
 
2. Tiểu thuyết Những người khốn khổ : 
 
Giăng Van-giăng là người lao động nghèo, bị khép tội tù khổ sai vì đã ăn   cắp một cái bánh mì cho cháu. Ra tù, ông trở thành người tốt nhờ sự  cảm  hoá của Giám mục Mi-ri-en. Ông đổi tên là Ma-đơ-len, mở nhà máy,  giàu  có và trở thành thị trưởng. Nhưng ông luôn bị thanh tra Gia-ve  nghi ngờ  và theo dõi. Ông giúp đỡ Phăng-tin, tìm và nuôi Cô-dét, con  gái  Phăng-tin. Giăng Van-giăng còn cùng mọi người chiến đấu chống chính   quyền tư sản. Ông cứu sống Ma-ri-uýt, người yêu của Cô-dét và tha chết   cho Gia-ve. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông vun đắp cho tình  yêu  của Ma-ri-uýt với Cô-dét và cuối cùng chết trong cảnh cô đơn. 
 
3. Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền thể hiện sự lên   ngôi của cái Thiện, sự thảm bại của cái ác và khẳng định tấm lòng nhân   đạo cao cả của V. Huy-gô đối với những con người khốn khổ. 
 
4.Đọc hiểu 
 
V. Huy-gô là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch lãng mạn nổi tiếng   của Pháp. Sống trong một thế kỉ đầy những biến cố bão táp, V. Huy-gô  trở  thành “hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn”, nhà văn của những khát  vọng  và yêu thương sâu xa nhất của con người. Bộ tiểu thuyết Những  người khốn  khổ được coi là một kiệt tác của văn chương lãng mạn, một  bức thông  điệp bày tỏ những mơ ước, khát vọng về một xã hội tốt đẹp,  công bằng và  yêu thương hơn. 
 
Đoạn trích có thể được chia làm 3 phần : 
 
Phần 1 (từ đầu đến rùng mình) : nêu bối cảnh câu chuyện và nỗi sợ hãi của Phăng-tin trước Gia-ve. 
 
Phần 2 (tiếp theo đến tắc thở) : cảnh bắt Giăng Van-giăng và cái chết của Phăng-tin. 
 
Phần 3 (đoạn còn lại) : thái độ và tâm trạng của Gia-ve và Giăng Van-giăng trước cái chết của Phăng-tin. 
 
Trong đoạn trích, người đọc thấy có sự phân chia hai tuyến nhân vật khá   rõ. Đối lập với một Gia-ve hung hãn, tàn ác là một Giăng Van-giăng  cương  nghị, kiên quyết. Khi quyết định ra tự thú cứu Săng-ma-chi-ơ,  Giăng  Van-giăng đã trở thành một kẻ tội phạm bị truy đuổi của Gia-ve  nhưng ông  vẫn hoàn toàn bình tĩnh. Trong khi Gia-ve “phá lên cười, cái  cười ghê  tởm phô ra tất cả hai hàm răng”, “nắm lấy cổ áo Giăng  Van-giăng thì  Giăng Van-giăng “không cố gỡ bàn tay hắn”. Trong khi  người ta gọi Gia-ve  là “ông thanh tra” thì Giăng Van-giăng chỉ gọi hắn  với cái tên  “Gia-ve”. Con người Giăng Van-giăng dường như không chịu  bất cứ một sự  uy hiếp nào. Đặc biệt, sau khi Phăng-tin chết, thái độ  của Giăng  Van-giăng đối với Gia-ve càng kiên quyết hơn. Ông “cậy bàn  tay” Gia-ve  như “cậy bàn tay trẻ con”. Ông “lăm lăm cái thanh giường”  và “nhìn  Gia-ve trừng trừng”. Không chỉ vậy, lời nói của Giăng  Van-giăng đầy  nghiêm khắc : “’Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc  này”. Lời khuyên  nhưng đã hàm ý trong đó một sự đe dọa, phản kháng –  một lời cảnh cáo của  Giăng Van Giăng trước Giave. Có lẽ chính thái độ  bình tĩnh và kiên  quyết ấy của Giăng Van Giăng đã làm cho Giave run sợ.  Một “ông thanh  tra” được quyền bắt bớ đánh đập, đe doạ người khác lại  bị một tên tù khổ  sai uy hiếp. Đó cũng là sự chiến thắng của cái thiện  đối với cái ác.  Trong lời nói của Giăng Van-giăng, người đọc cảm nhận  được vị thế kiêu  hãnh ngạo nghễ của một “ông thị trưởng” của quyền lực  chính nghĩa. Đây  chính là hình ảnh của một “người cầm quyền” đã khôi  phục được uy quyền  của mình. Kẻ thuộc hạ dưới trướng của Giăng  Van-giăng cuối cùng cũng  phải run sợ, cúi đầu. 
 
Ở đoạn trích, người đọc cũng thấy đối lập với một Gia-ve hung ác là một   Giăng Van-giăng giàu tình thương. Bỏ mặc sự đe doạ của Gia-ve, Giăng   Van-giăng vẫn lo lắng và săn sóc cho Phăng-tin. Lời “cầu xin” của Giăng   Van-giăng : “Xin ông thư cho ba ngày ! Ba ngày để đi tìm đứa con cho   người đàn bà đáng thương kia ! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu. Nếu   muốn, ông cứ đi kèm tôi cũng được” đã biểu hiện rõ tấm lòng yêu thương   cao cả của ông. Tấm lòng cảm thông của Giăng Van-giăng trước hoàn cảnh   đáng thương của Phăng-tin khiến người đọc cảm động. Đó là một nghĩa cử   đẹp đẽ đáng trân trọng. Để rồi ngay chính Gia-ve cũng phải ngạc nhiên :   “Á, à. Tốt thật ! Tốt thật đấy !”. Hành động của Giăng Van-giăng là sự   toả sáng của tinh thần nhân văn cao cả. Trong khốn khổ hiểm nguy, lòng   tốt và tình yêu thương của con người vẫn được “thăng hoa” rực rỡ. 
Phăng-tin chết, Giăng Van-giăng “xót thương khôn tả”, ông “tì khuỷu tay   lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán”… Ông ngồi yên lặng, “chẳng nghĩ   đến điều gì trên đời này nữa”. Lời nói thì thầm của Giăng Van-giăng có ý   nghĩa sâu xa. Người ta không rõ ông nói gì với Phăng-tin. Chỉ biết sau   lời nói ấy người ta thấy xuất hiện “một nụ cười không sao tả được hiện   trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị   khi đi vào cõi chết”. Khuôn mặt Phăng-tin ánh lên một sự thanh thản,   giống như là mãn nguyện hạnh phúc. Nụ cười của Phăng-tin là điểm sáng   của tác phẩm. Nó làm mờ đi những tăm tối hà khắc, những hung ác bạo   ngược. Đó cũng là nụ cười của niềm tin lạc quan và khát vọng chiến thắng   không gì dập tắt. Lời thì thầm của Giăng Van-giăng có thể là lời hứa   tìm lại đứa con cho Phăng-tin, hay có thể là một viễn cảnh tương lai   tươi sáng được mở ra. Dẫu thế nào, người đọc cũng cảm thấy một niềm hạnh   phúc lan toả đánh thức tâm hồn người ta. Phăng-tin đi vào cõi chết   những cũng chính là đi vào “bầu ánh sáng vĩ đại” – sự giải thoát khỏi   đau khổ, hạnh phúc để bước vào sự đổi thay của thế giới, sự chiến thắng   của tinh thần nhân văn bất diệt. Đó cũng là bức thông điệp đẹp đẽ của   chủ nghĩa lãng mạn Vích-to Huy-gô trong tác phẩm. 
 
*LIÊN HỆ 
 
Có thể nói Những người khốn khổ là bản anh hùng ca ca ngợi nhân dân, là   bản cáo trạng xã hội tư sản với cả một mạng lưới luật pháp, toà án, nhà   tù, quân lính, cảnh sát, những kẻ giàu sang, những tên lưu manh,...   Chính xã hội tư sản là nguyên nhân gây ra bao cảnh khổ trong nhân dân.   Xã hội ấy hiện hình tập trung nhất trong bộ mặt gớm ghiếc và tâm hồn   chai cứng của Gia-ve. Tác phẩm nêu rõ tình thương yêu chân chính chỉ có ở   những con người nghèo khổ. Huy-gô băn khoăn tìm biện pháp để đem lại   hạnh phúc cho những người khốn khổ. Tác phẩm bộc lộ quan điểm của nhà   văn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, kêu gọi người giàu   giúp đỡ người nghèo và chủ trương dùng tình thương yêu để cải tạo con   người, cải tạo cái ác. Trong Những người khốn khổ, Huy-gô đã phần nào   nhận thức được những tư tưởng mạng nặng tính chất ảo tưởng của mình. Ông   cảm thấy rõ sự rạn nứt của tư tưởng nhân văn bất bạo động và đã nhìn   thấy một hướng giải quyết khác là làm cách mạng tiêu diệt trật tự xã hội   cũ. Tuy sự chuyển biến trong tư tưởng Huy-gô chưa thật dứt khoát, hình   ảnh Giăng Van-giăng yêu thương "tuyệt đối" vẫn bao trùm từ đầu đến  cuối  tác phẩm, nhưng cuộc chiến đấu hào hùng trên chiến luỹ của nhân  dân lao  động Pa-ri đã được nhà văn xây dựng thành những trang đẹp nhất  trong bộ  tiểu thuyết, đem lại cho độc giả niềm tin vào tương lai tươi  sáng. 
  
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |