Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu  quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, Nam Cao gia nhập  Đảng. Từ đây, với cảm quan mới, Nam Cao hăng hái tham gia công tác văn  hóa, văn nghệ và báo chí cứu quốc, hòa mình vào cuộc kháng hiến vĩ đại  của dân tộc. Khiêm tốn, giản dị, chân thành, nhà văn không nề hà, không  ngại khó, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được tổ chức phân công. Các  tác phẩm "kịp thời" của ông bắt ngay vào việc tuyên truyền cổ vũ, động  viên chiến sĩ, cán bộ đồng bào trong địch hậu, ngoài tiền tuyến, trong  đó truyện ngắn Đôi mắt được xem như một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà  văn dứt khoát với cái cũ, hào hứng, tin tưởng trên con đường lớn của dân  tộc, của đất nước 
  
“Mấy ngày nghỉ Tết, tồi dùng để viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ. Truyện  Tiên sư thằng Tào Tháo ! Nhưng sau tôi đặt cho nó một cái tên giản dị và  đứng đắn : Đôi mắt”. 
  
Đấy là tất cả những gì mà Nam cao đã viết về Đôi mắt trong cuốn nhật kí  mà ông vẫn ghi khá đều đặn và kĩ lưỡng trong mấy tháng ở rừng. Chỉ vẻn  vẹn chưa đầy ba dòng chữ, không hơn. Trong khi cũng ở ngày 2-3-1948 ấy,  nhà văn lại dành nhiều giấy mực và rất nhiều sự thiết tha để nói về  những lí do đã khiến ông phải dằn lòng gác lại ý định làm cuốn tiểu  thuyết lớn mà ông vẫn thường xuyên trăn trở. 
  
Có nghĩa rằng Nam cao đã không hề coi Đôi mắt là “ cái tác phẩm mơ ước”  của đời mình. Và rất có thể chính nam Cao cũng đã không tiên lịệu được  rằng cái truyện ngắn được ông viết để cho đỡ nhớ kia rồi sẽ thuộc vào số  rất hiếm các tác phẩm văn xuôi thời ấy mà giá trị, như những năm sau  này cho thấy, không bị nhạt phai đi với thời gian. 
  
Nhưng thật sự lại đúng là như thế. Những trang văn Nam Cao viết trong  mấy ngày Tết ấy sẽ còn mãi để cùng với bao thế hệ bạn đọc phát hịên, suy  ngẫm về những ý nghĩa sâu sắc, lớn lao của nghệ thuật – mà cũng không  chỉ riêng gì nghệ thuật... Những trang văn ấy còn mãi, còn là để cho  chúng ta thêm dịp ngưỡng mộ một tài năng truyện ngắn bậc thầy. 
  
Đôi mắt phê phán cách nhìn đời, nhìn người lệch lạc, khinh miệt, lối  sống ích kỷ và bàng quan của một trí thức đối với kháng chiến, đồng thời  biểu dương một lớp trí thức, văn nghệ sĩ có một cái tâm đẹp, gắn bó với  nhân dân, tích cực tham gia sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đôi mắt  thể hiện cách nhìn và thái độ của người trí thức đối với nông dân và  kháng chiến. 
  
Nam Cao, như thường lệ, vào truyện rất nhanh. Bỏ qua bằng hết những chi  tiết thừa, những điều vụn vặt, hòan toàn không cần đến lối kể đủ ngành  ngọn, đủ đầu đuôi, nhà văn chỉ bằng một hai câu đã ngay lập tức đặt  chúng ta trước ngôi nhà của nhân vật chính – văn sĩ Hoàng. Rồi cũng chỉ  qua một hai câu nữa, ấn tượng đầu tiên về nhân vật đó đà nổi hẳn lên,  qua một chi tiết đầy sức phát hiện: Đã đến nước phải rời Hà Nội tản cư  về nông thôn sống nhờ dân mà một thói quen không hợp cảnh, không hợp  thời đến như nuôi chó Tây trong nhà, anh ta cũng không sao bỏ được. Một  con người vẫn cứ hệt như cũ, trong một hòan cảnh đã hòan tòan khác cũ. 
  
Nhưng đó mới là khúc dạo đầu tiên, làm nên, làm nền để cho Hòang xúât  hiện. Và tác giả đã cho nhân vật bước ra: một con người mới thạot trông  đã thấy ứ đầy sự no nê, nhàn hạ, sự múp míp, phong lưu, nó khiến anh trở  nên rất chướng trong hòan cảnh cả một dân tộc đang gian lao chiến đấu.  Và cái cảm giác ấy đã được Nam Cao diễn tả một cách sắc sảo đến tinh  quái, trong những lời văn thật giàu sức tạo khối tạo hình: 
  
“Anh Hòang đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí  to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối  thịt ở hai bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá”. 
  
Xin hãy nhớ rằng những lời có khả năng làm người ta phải phát ngấy lên  này, Nam Cao đã viết vào lúc đang sống với những bữa cơm rất nhiều khi  chỉ có muối không, trên rừng, bên những người Tày, người Dao vất vả và  đói rách... 
  
  
Có thể nói, trên suốt chiều dài thiên truyện, Nam Cao không ngớt đưa ra  những chi tiết rất đắt để miêu tả ngọai hình Hòang và đời sống vào lúc  ấy đang là quá ư dư giả của nhà Hòang: nào là “một cái vành móng ngựa  ria” đặc chất thị thành được Hoàng chăm nuôi đúng lúc anh ta đã rời  thành thị, nào là cái thú ăn mía ướp hoa bưởi và ngủ trong những tấm  chăn thoang thỏang nước hoa... 
  
Có lẽ ở đây nên tránh một sự hiểu lầm. Một người như Nam Cao, tôi chắc  không bao giờ lại thù nghịch với một nhu cầu chính đáng của con người –  nhu cầu được sống trong sung sướng. Trong trường hợp này, nhà văn, theo  tôi, chỉ muốn lí giải cái nguyên nhân đã sinh ra đôi mắt nhìn đời, nhìn  người một phía của Hòang. Hãy nhớ đến cái ý của F.Coppée mà Nam Cao từ  lâu đã tâm đắc: Người chỉ xấu xa trước đôi mắt của phường ích kỉ. 
  
Phải chăng, Nam Cao đã đặt vào trung tâm truyện Đôi mắt này hình tượng  của một kẻ xét cho cùng cũng thuộc vào phường ích kỉ, một kẻ mà sự ích  kỉ đã cho phép anh ta yên tâm thỏa thuê sung sướng no đủ một mình giữa  những tháng ngày gian khổ nhất củ cuộc kháng chiến toàn dân. Và đấy là  một lí do, là một trong những lí do đã khiến dưới đôi mắt anh ta, con  người hiện lên với chỉ tòan cái xấu. 
  
Không khó khăn gì để thấy, quả thật, dưới đôi mắt và qua cửa miệng  Hòang, đã hiện lên, và chỉ hiện lên, cả một danh sách dài những tật xấu  của người dân kháng chiến: ngu độn, tham lam, bần tiện, thóc mách, rởm  đời, và tệ nhất là đã ngố lại còn nhặng xị (đánh vần chưa xong mà lại  thích đòi xét giấy, viết còn sai chữ quốc ngữ mà lại sính làm con vẹt  lặp lại những từ chính trị cao siêu).Người dân chỉ có thể là như thế  dưới mắt Hòang: và đấy là một định kiếng mà cho đến cuối cùng, không một  nhân vật nào dám nghĩ đến việc làm thay đổi. 
  
Nhưng xin đừng vội đơn gảin hóa Nam Cao. Nhà văn xây dựng nhân vật Hòang  như một người chỉ nhìn được một phía của sự thật chứ không phải một kẻ  cố ý nói sai sự thật. Có thể tin rằng Hòang chân thực trong việc kể lại  những gì mình quan sát được. Anh ta cam đoan tới hai lần:” Tôi có bịa  một tí nào, tôi chết”. Và cũng xin để ý điều này: không một nhân vật  nào, ngay cả Độ - người có thể coi như một hóa thân của chính Nam Cao –  thấy ngờ vực về những điều Hòang kể. Độ có thể không đồng tình với thái  độ không đồng tình của Hòang, có thể cắt nghĩa khác đi về những hiện  tượng mà Hòangđã nêu ra, nhưng Độ chưa hề một lần hòai nghi rằng những  hiện tượng như Hòang đã thấy là không thể có. Đấy là chưa nói rằng, có  lúc Độ còn góp thêm vào câu chuyện của Hòang những hiện tượng tương tự  thế về những nhược điểm của quần chúng, với một giọng điệu không phải  hòan tòan xa lạ so với giọng điệu của Hòang:” Vô số anh răng đen, mắt  tóet, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu  kinh...”. Nếu không có thêm những lời giải thích ở phía sau, thì một lối  nói thế này, riêng nó thôi, kể cũng dễ bị lầm cho là của chính nhân vật  Hòang. 
  
Hòang nhìn đời, nhìn người theo một phía. Nhưng ở riêng cái phía ấy thì  Hòang lại rất biết nhìn, và càng rất biết diễn tả một cách sắc sảo những  gì nhìn thấy. Hầu như không bao giờ anh ta chịu dừng ở những nhận xét  chung chung. Ngược lại, nhà văn ấy – không phải tình cờ mà Nam Cao đã  xây dựng nhân vật Hòang là một nhà văn – luôn luôn biết làm sống động  những nhận xét của mình bằng những câu chuyện kể đầy ý vị. Xin thử lấy  ra đây một trong rất nhiều ví dụ. Hòang phàn nàn với Độ về việc người  dân quê, theo Hòang, cứ hay nấp nom chú ý một cách vô lối tới những  người ở xung quanh. Một nhận xét như thế chắc sẽ không có gì đặc biệt  hấp dẫn nếu không có những câu tiếp theo sau: 
  
“Này, anh mới đến chơi thế mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp nom rồi.  Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ  kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt  ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái”. 
  
Cái đáo để của Hòang, mà cũng là cái ghê gớm ở ngòi bút văn xuôi của Nam  Cao lại chính là cái khả năng biết nhìn ra cái không mấy ai nhìn thấy.  Khả năng nhận thấy cái bản chất nó bộc lộ ra tận kẽ tóc chân tơ ở chính  những chỗ tưởng như chẳng đáng kể gì hết cả: những nốt ruồi, mấy cái lỗ  rách, mà lại cụ thể đến mức là lỗ rách ở ống quần bên trái ! Chẳng khác  nào M.Gocki và I.Bunin trước kia đã từng phát hiện ra đúng thực chất của  một kẻ lạ trong quán rượu nhờ không chỉ vào vẻ mặt xanh xám, mà còn từ  lọai cà vạt và chiếc cổ áo nhàu... 
 
Tham khảo thêm: 
 
I . ĐẶT VẤN ĐỀ 
 
Đôi mắt là tác phẩm quan trọng nhất của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám  và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất của Văn học Việt nam trong thời kì  kháng chiến chống Pháp . Lúc đầu nhà văn đặt tên là Tiên sư thàng Tào  Tháo, nhưng sau này Nam Cao đặt cho nó một cái tên giản dị hơn rất nhiều  : Đôi mắt .   
 
Tác phẩm được viết vào mùa xuân năm 1948 . Tác phẩm nhận đường cho văn  nghệ sĩ và đặt ra vấn đề cái nhìn, lập trường , quan điểm, chỗ đứng của  người nghệ sĩ trong thời đại cách mạng . Như vậy tác giả đã có sự lựa  chọn cân nhắc để đặt nhan đề cho tác phẩm , để qua nhan đề làm nổi bật ý  nghĩa tư tưởng của truyện ngắn này  .   
 
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .   
 
Đọc Đôi mắt ta hiểu ngay vấn đề cách nhìn quần chúng và cuộc kháng chiến  khác nhau giữa những người nghệ sĩ có quan điểm lập trường khác nhau,  được thể hiện qua  Hoàng và Độ là hai nghệ sĩ, hai nhân vật trung tâm  của tác phẩm .  
 
     Trước hết ta thấy Hoàng không phải nhìn quần chúng với đôi mắt thù  địch . Nhà văn này về cơ bản không phải là một kẻ phản động. Hoàng vẫn  có những nét đáng trân trọng như thái độ bộc lộ thẳng thắn những suy  nghĩ của mình với nhân vật Độ, lòng ngưỡng mộ chân thành với lãnh tụ một  cách ngây thơ. Và cũng không nên coi những chuyện Hoàng nói về người  nông dân là vu cáo hay xuyên tạc. Tất cả bắt nguồn từ đôi mắt nhìn nhận  thời cuộc của cá nhân nhân vật Hoàng .  
 
Nhắc đến điều này để thấy rõ bản lĩnh nghệ thuật của Nam Cao. Ông phát  hiện và miêu tả đôi mắt của Hoàng từ nhiều góc độ, không đơ giản, một  chiều tạo nên sự chấp nhận dễ dãi từ phía người đọc .  
 
Đôi mắt của Hoàng dần dần được thể hiện qua việc anh kể lần lượt những  điều tai nghe mắt thấy một cách hóm hỉnh, sắc sảo . Tài quan sát, tài  diến đạt hấp dẫn, cộng với năng lực hài hước hóa , lố bịch hóa những gì  mình không ưa thích khiến những mẫu chuyện Hoàng kể thật sinh động .  
 
Bằng đôi mắt của mình, Hoàng cảm nhận người nông dân tham gia kháng  chiến toàn là những người vừa ngố vừa nhặng xị, hầu hết đều ngu độn, lỗ  mãng, ích kỉ, tham lam bần tiện . Cha con , anh em chẳng tốt với nhau .  Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng nhố nhăng . Viết  chữ quốc ngữ  sai vần  mà cứ hay nói chuyện chính trị rối nhặng cả lên .  Sắc sảo, có tài quan sát, nhưng Hoàng hoàn toàn không nhìn thấy bên  trong việc cảnh giác quá đáng , ham tuyên truyền cách mạng “động thấy ai  đi qua là hỏi giấy”, “hay nói chuyện nói chuyện chính trị”, “đọc thuộc  lòng cả bài dài 5 trang giấy” về đường lối kháng chiến “như một con vẹt  biết nói kia” là bản chất yêu nước, cách mạng của họ .  
 
Cũng xuất phát từ đôi mắt khinh bạc, thiếu thiện cảm với người nông dân  nên Hoàng chẳng những chỉ nhìn thấy mặt nhược điểm đáng cười mà còn ít  nhiều phóng đại, cường điệu , hài hước hóa mặt nhược điểm đó để chế  nhạo, giễu cợt một cách bất nhẫn . Tác giả đã tường thuật cuộc trò  chuyện giữa hai vợ chồng Hoàng với Độ như một minh chứng cho sự bất công  trong cách nhìn người, nhìn đời của nhân vật Hoàng . Ở  đây nhà văn  không cố ý đóng cũi tình cảm của mình để người đọc tự nhận thấy kẻ đáng  cười, đáng trách không phải là những người nông dân mà chính lại là vợ  chồng Hoàng - những kẻ đang ra sức bêu xấu họ .  
 
Chỉ nhìn thấy nông dân ngu dốt, ngây ngô, tất yếu Hoàng không bao giờ  tin vào quần chúng nhân dân mà lực lượng chủ yếu là nông dân sẽ đưa cuộc  kháng chiến đến thành công, Hoàng rất nản . Tuy vậy, anh ta lại tin vào  tài năng của cụ Hồ, “cứ cho rằng dân mình có tồi đi nữa. Ông cụ xoay  quanh rồi cũng cứ độc lập như thường” điều này chứng tổ bằng cách nhìn  phiến diện, Hoàng đã tạo nên một sự đối lập giữa lãnh tụ và dân tộc.  
 
Với đôi mắt  nói trên còn tất yếu dẫn Hoàng đến thái độ chỉ giao thiệp  với đám người  “cặn bã của giới thượng lưu trí thức”, mà anh ta thừa  biết toàn những kẻ “thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời”, Hoàng chơi với  họ, nhưng có ưa gì họ . Nghĩ cho cùng giữa  anh và họ chính là quan hệ  của những người cùng hội cùng thuyền . Bởi vậy anh chỉ có thể chơi với  họ chứ không cộng tác với những người kháng chiến . Và việc anh “đóng  cửa suốt ngày không giám đi đâu nữa” cũng hoàn toàn có thể giải thích  bằng “đôi mắt’’ nói trên.  
 
    Vốn là một nhà văn hiện thực, Nam cao rất có ý thức giải thích một cách  hệ thống toàn diện dĩ nhiên bằng các chi tiêt nghệ thuật “đôi mắt” của  Hoàng .  
 
    Hoàng vốn là một văn sĩ trưởng giả, nhân cách thấp kém “có cái tật hay  đá bạn”, trong khi đồng nghiệp “chỉ còn một dúm xương’’ trong nạn đói  năm 1945 thì  “ Hoàng vẫn phong lưu” nhờ tài … chạy “ chợ đen rất tài  tình” và “con chó của anh vẫn chưa phải nhịn đói bữa nào” .  
 
    Đặc biệt, khi kháng chiến bùng nổ, bao tầng lớp nhân dân đặc biệt là  nông dân sẵn sàng chịu đựng gian khổ thiếu thốn, hi sinh đóng góp sức  lực cho cuộc kháng chiến, thì Hoàng vẫn giữ nguyên cách sống cũ, ích kỷ,  co mình lại trong vỏ ốc gia đình với những bữa ăn ngon, những món quà  vặt lạ miệng, với nhà cửa khang trang với nếp sinh hoạt trưởng giả: Nuôi  chó dữ, đọc truyện Tam quốc trước khi đi ngủ, hút thuốc lá thơm, nằm  màn tuyn trắng toát, chăn đắp thoang thoảng nước hoa… Hoàng hoàn toàn  dửng dưng trước thời cuộc, tách mình ra khỏi sự nghiệp chung của nhân  dân của đất nước. ( dĩ nhiên trong hoàn cảnh bình thường, chúng ta có  thể nghĩ khác về Hoàng).  
 
    Như vậy ở  nhân vật này thiếu hẳn sự gắn bó với những người lao khổ  ,nói rộng là thiếu sự gắn bó với nhân dân với đất nước ,thiếu cội nguồn  nhân đạo cần thiết của một nhà văn . Do đó, “đôi mắt” nhìn người nông  dân của Họàng trước trước sau không hiểu  nổi người nhà quê, không hiểu  cuộc kháng chiến là diều có thể giải thích được .  
 
Đối lập với Hoàng là Độ . Thực ra , phân tích đôi mắt của Hoàng đã hàm  chưa việc phân tích đôi mắt của Độ, vì hai nhân vật này được xây dựng để  bổ sung cho nhau, làm rõ luận đề của tác phẩm . Vả lại, nhân vật Hoàng  đã được miêu tả dưới đôi mắt của Độ .  
 
Trước hết, Độ cũng không thấy ít những điểm yếu của những người nông dân  : răng đen, mắt toét, phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhác sợ, nhịn nhục  một cách đáng thương … Nhưng điều quan trọng hơn, Độ nhìn thấy được nét  chủ yếu trong con người họ . Đó là bản chất tốt đẹp của người nhà quê .  Theo anh họ có thể làm cách mạng , mà bằng chứng hùng hồn nhấtt là lúc  ra trận, giáp mặt với cái chết, chính anh cũng thấy họ xung phong can  đảm lắm . Tin vào sức mạnh của nông dân, cũng có nghĩa là  Độ tin vào  tương lai của cuộc kháng chiến .  
 
Sở dĩ Độ có được đôi mắt nói trên không phải chỉ vì anh đã sống ở  nhà  quê nhiều, mà điều quan trọng hơn là anh yêu mến và đã tự nguyện gắn bó  cuộc đời mình với nông dân, với sự nghiệp chung của cả dân tộc .ngay từ  ngày tổng khởi nghĩa, độ đã theo nông dân “đi đánh phủ’’. Sau cách mạng,  anh  “đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ”’. Từ một nhà văn, Độ  sẵn  sàng làm người “tuyên truyền nhãi nhép’’ cho cách mạng, anh có thể  “ngủ  ngay trong nhà in đèn sách và máy chạy ầm ầm’’…  
 
    Tóm lại, bằng truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao đã khắc họa hai cái nhìn (  mà thực chất là hai tính cách, hai con người) khác hẳn nhau. Nhà văn  biểu dương “đôi mắt’’ đúng đắn của Độ - người nghệ sĩ gắn sự nghiệp của  mình với quần chúng, tích cực tham gia kháng chiến;  phê phán  “đôi  mắt’’ chua chát chán nản của Hoàng - một kiểu trí thức ích kỷ, tách mình  ra khỏi sự nghiệp chung của dân tộc. Qua đó Nam Cao khẳng định : Nhà  văn trước hết phải đứng trên lập trường của người công dân có trách  nhiệm với cuộc kháng chiến, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, kể cả  văn chương nghệ thuật, và có cái nhìn mới về người lao động - những con  người bình thường nhưng vĩ đại. Đồng thời, nhà văn muốn viết đúng phải  có  “đôi mắt’’ nhìn nhận đúng; muốn nhìn nhận đúng phải có tấm lòng nhân  ái.  
Chính vì lẽ đó mà nhà văn Tô Hoài coi tác phẩm Đôi mắt là bản tuyên ngôn  nghệ thuật của cả một lớp nhà văn cũ đi theo cách mạng . Bởi nó đề cập  được đến vấn đề đôi mắt của người nghệ sĩ, của nhà văn trong kháng chiến  . Đôi mắt ở đây chính là cách nhìn người, cách nhìn đời; nói khái quát  hơn là vấn đề quan điểm, lập trường của người trí thức văn nghệ sĩ đối  với cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc và người nông dân -  lực  lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến . 
 
Đôi mắt là một truyện ngắn nhưng đã nêu được vấn đề lớn: Vấn đề thế giới  quan của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Sau ngót nửa thế kỷ,  đến nay, điều ấy vấn có ý nghĩa mới mẻ.   
 
Qua phân tích “đôi mắt’’ của Hoàng và ‘’đôi mắt’’ của Độ, chúng ta không  những khâm phục chất trí tuệ sắc sảo, thâm trầm của Nam Cao, mà còn  trân trọng tấm lòng gắn bó sâu nặng với nhân dân với đất nước của một  nhà văn luôn phấn đấu cho những gì tốt đẹp trên đời.  
 
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ .   
 
    Truyện ngắn Đôi mắt là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao  sau cách mạng tháng Tám . Đó là tác phẩm ưu tú của văn học Việt Nam thời  kì đầu kháng chiến . Tác phẩm không chỉ đơn thuần phản ánh đôi mắt của  cá nhân mà còn lớn hơn, khẳng định vấn đề lập trường quan điểm của  văn  nghệ sĩ . Điều đó đã nâng tác phẩm lên một tầm cao mới, xứng đáng là bản  tuyên ngôn nghệ thuật cho cả một thế hệ nhà văn như nhận xét của Tô  Hoài .  
 
 
Bài 3 
Ít có nhà vãn lại trăn trở nghĩ suy về ngòi bút của mình như Nam Cao   và ông đã gửi gắm những suy nghĩ dó vào tác phẩm như là những tuyên  ngôn  nghệ thuật của người cầm bút. Từ Trăng sáng (1943) với việc dứt  khoát  đứng về phía "nghệ thuật vị nhân sinh", đến Đời thừa (1943) nhấn  mạnh  tính sáng tạo trong ngòi bút để làm tròn sứ mạng cao quý của nghề  văn,  đến Đôi mắt (1948) ông lại đặt ra vấn đề cách nhìn của nhà văn  trong  sáng tác nghệ thuật ở thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp mà  Tô Hoài  đã coi đó là tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ nhà văn lúc bấy  giờ. 
   
 Vì sao Đôi mắt được coi là "Tuyên ngôn nghệ thuật" của nhiều nhả văn ở thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp? 
   
 Viết Đôi mắt, Nam Cao đặt ra một vấn đề bức xúc và cốt tử của nhà  văn  nghệ sĩ lúc bấy giờ: vấn đề cách nhìn, quan điểm. Ở đây là quan  điểm đối  với cuộc kháng chiến, đặc biệt là đối với nhân dân, những  người đã làm  nên cuộc Cách mạng tháng Tám và đang đóng vai trò chủ chốt  trong cuộc  kháng chiến. Không chỉ là cách nhìn, quan điểm mà nội dung  tác phẩm còn  đặt vấn đề sâu hơn, gốc gác hơn: Vấn đề lập trường của nhà  văn đối với  cuộc kháng chiến của dân tộc. 
   
  Vì sao Nam cao lại đặt ra vấn đề cách nhìn vào thời điểm ấy? và đặt  ra  cho ai? Đó là lớp văn nghệ sĩ trước 1945, tuy yêu nước và có tinh  thần  dân tộc, đi theo cách mạng, nhưng chưa thật hiểu cách mạng, hiểu  nhân  dân và kháng chiến. Họ còn nhiều hoài nghi, phân vân, do dự trước  cuộc  kháng chiến của dân tộc. Như vậy thì làm sao có thể nhìn đúng để  viết  đúng được, làm sao có thể phục vụ cuộc kháng chiến bằng ngòi bút  của  mình? Họ đang "tìm đường" và "nhận đường" cho mình. Và Nam Cao đã  giúp  họ "gỡ nứt" bằng truyện ngắn Đôi mắt: xác lập cho họ một chỗ đứng  (vấn  đề lập trường) và một cách nhìn (vấn đề quan điểm) để giải tỏa  những băn  khoăn, vướng mắc trong ngòi bút của họ. 
   
 
   
 Tuyên ngôn nghệ thuật của Đôi mắt không chỉ là vấn đề bức xúc lúc  bấy  giờ mà còn là vấn đề cốt tử, vĩnh hằng của văn nghệ sĩ: "thế giới  quan  quyết định sáng tác nghệ thuật". Có nghĩa là, cách nhìn hiện thực  đúng  thì sẽ đem lại những tác phẩm tốt, có ích cho đời, và ngược lại.  (Dĩ  nhiên, nhà văn phải có tài năng nghệ thuật tương xứng). Và, để có  cách  nhìn đúng đắn, thì điều tiên quyết là nhà văn phải có một chỗ đứng  đúng  đắn: ở giữa cuộc sống cách mạng của nhân dân, của đất nước. 
   
 Vấn đề Đôi mắt được Nam Cao đặt ra như thể nào trong tác phẩm? 
   
 Nam Cao đã đặt ra vấn đề cốt tử này – không phải bằng lí luận khô  khan  trừu tượng, mà bằng một hình tượng nghệ thuật sóng đôi hấp dẫn,  sinh  động với hai nhân vật có lập trường và cách nhìn đối lập nhau:  Hoàng và  Độ. Văn sĩ Hoàng là tiêu biểu cho loại người có cách nhìn sai  lệch,  phiến diện (Nam Cao gọi là "nhìn một phía") với thái độ hằn học,  khinh  miệt quần chúng và không tin tưởng vào cuộc kháng chiến của nhân  dân:  ông ta chỉ chăm chăm nhìn vào hiện tượng bên ngoài mà không thấy  được  bản chất tốt đẹp bên trong của người nông dân yêu nước kháng  chiến.  Ngược lại là Độ – nhà văn có cách nhìn đúng đắn, toàn diện (thây  được cả  mặt tích cực, mặt hạn chế tồn tại, và đâu là bản chất của  người nông  dân) với thái độ thông cảm và tin tưởng. Trước sự việc anh  nông dân vác  tre đi rào làng kháng chiến, Hoàng chỉ thấy đó là một con  người "ngố và  nhặng xị", một con vẹt đọc thuộc lòng ba giai đoạn kháng  chiến; nhưng Độ  lại thấy ở anh một tấm lòng yêu nước thật hồn nhiên và  vô tư. 
   
 Cách nhìn khác nhau ấy, suy cho cùng, là do chỗ đứng khác nhau của  hai  nhà văn quyết định, sống một cuộc sông cá nhân, ích kỉ, hưởng lạc,  xa  rời nhân dân, tách biệt hẳn cuộc sống kháng chiến như Hoàng thì  không  thể cổ cách nhìn giống như Độ – một nhà văn của nhân dân, sống  hòa mình  cùng quần chúng, sẵn sàng "làm anh tuyên truyền nhãi nhép"  phục vụ kháng  chiến. Ở văn sĩ Hoàng, cái chính là vấn đề lập trường. 
   
 Lập trường quyết định "đôi mắt", quyết định cách nhìn. Đây là cách  nhìn  của một nhà văn còn đứng ngoài cuộc kháng chiến của dân tộc. 
   
 Đôi mắt xứng đáng là "tuyên ngôn nghệ thuật" của một lớp văn nghệ  sĩ hồi  đầu cuộc kháng chiến chông Pháp. Đây là tuyên ngôn về lập trường  kháng  chiến của nhà văn, về cách nhìn đúng đắn hiện thực để sáng tạo  nghệ  thuật, cũng là tuyên ngôn về khuynh hướng mĩ học mới: cái đẹp là  thuộc  về nhân dân lao động, những con người bình thường mà vĩ đại –  nhân vật  chính của nền văn học mới. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |