Tố Hữu là nhà thơ có vị trí rất quan trọng trong nền văn học cách mạng  Việt Nam. Trong thơ Tố Hữu, cái Tôi trữ tình, trẻ trung, sôi nổi và đầy  nhiệt huyết là cái Tôi gắn với cách mạng, cái Tôi mang trong mình lí  tưởng cộng sản. Với tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đã bắc chiếc cầu nối giữa hình  thức thơ mới với thơ ca yêu nước và cách mạng. Giữa lúc các nhà thơ mới  còn băn khoăn, còn đắm mình trong nỗi buồn đau, cô đơn tuyệt vọng, thì  Tố Hữu với Từ ấy đã cất lên khúc hát ngợi ca lí tưởng cách mạng và tự  tin khẳng định sự đúng đắn của con đường mình đã chọn. Từ ấy thể hiện  tâm trạng háo hức, tràn đầy niềm tin và hi vọng của người cộng sản trẻ  tuổi. 
  
Đặt bài thơ vào hoàn cảnh xã hội, chính trị, văn hoá thời điểm nó ra đời  mới hiểu và lí giải được những cung bậc cảm xúc mãnh liệt của nhân vật  trữ tình. Bài thơ ra đời vào thời kì cách mạng Dân tộc dân chủ 1936   1939. Năm 1930, Đảng Cộng sản ra đời, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc  đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tố Hữu thuộc lớp thanh niên sớm được  giác ngộ cách mạng. Và người thanh niên với trái tim tuổi hai mươi đang  căng đầy sự sống đã đến với cách mạng bằng niềm phấn khích của người vừa  tìm thấy con đường lí tưởng của đời mình. Nhân vật trữ tình của bài thơ  là người cộng sản trẻ tuổi với quan niệm cao đẹp về lí tưởng sống  lí  tưởng cộng sản. 
  
Khổ thơ đầu tiên của bài thơ diễn tả tâm trạng vui sướng của nhân vật trữ tình tác giả khi bắt gặp lí tưởng cộng sản : 
  
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ 
Mặt trời chân lí chói qua tim 
Hồn tôi là một vườn hoa lá 
Rất đậm hương và rộn tiếng chim… 
  
Một vấn đề chính trị, vấn đề lí tưởng sống, nhưng đã được tác giả thể  hiện bằng một hình thức “rất đỗi trữ tình”. Niềm vui được thể hiện một  cách tự nhiên và thành thực. “Từ ấy” là từ khi được giác ngộ cách mạng,  được dẫn dắt vào con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Cùng thời với  nhân vật trữ tình, những năm ba mươi ấy, khi mà cách mạng Việt Nam còn  hoạt động bí mật, có rất nhiều thanh niên Việt Nam có tấm lòng yêu nước  thương nòi, nhưng họ đã không thể hoặc không có cơ hội để đến với cách  mạng. Lớp thanh niên ấy đã rơi vào tâm trạng bế tắc, chán chường, người  thì tìm đến với thế giới cô đơn, người lại tìm đến với thế giới tưởng  tượng để trốn tránh hiện thực hoặc tìm quên bằng những cách của riêng  mình. Tâm trạng bế tắc của lớp thanh niên ấy được thể hiện rất rõ trong  thơ mới. Nhân vật trữ tình của bài thơ may mắn hơn. Anh đã tìm ra con  đường đi cho cuộc đời mình, đó là con đường chung của cả dân tộc. Để thể  hiện niềm vui ấy, nhà thơ đã chọn dùng một loạt từ ngữ gợi hình và gợi  cảm : bừng (nắng hạ), chói (qua tim), rất đậm (hương), rộn (tiếng chim).  Đây đều là những từ ngữ có khả năng biểu hiện trạng thái mạnh của sự  vật, sự việc. Nó vừa đột ngột, vừa mạnh mẽ, vừa sôi nổi và sâu sắc. Vì  thế nó thể hiện được trạng thái cảm xúc hưng phấn của nhân vật trữ tình.  Khổ thơ như tiếng reo vui đầy phấn chấn. Ánh sáng của cách mạng chói  sáng như “nắng hạ”, như “mặt trời” soi đường cho nhân vật trữ tình. Khi  đất nước mất chủ quyền, nhân dân sống trong lầm than nô lệ, cả dân tộc  như chìm trong đêm tối, mỗi người phải tự dò dẫm để tìm ra con đường  sống cho mình. Cách mạng đã soi đường cho người chiến sĩ trẻ. Cách mạng  không chỉ là ngọn đèn mà là “mặt trời”  nơi chân lí chói sáng. Bắt gặp  ánh sáng ấy, tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi bừng dậy sức sống, nó  được ví như một vườn cây đầy sức sống. Nhịp thơ dồn dập, câu thơ nối  dòng đã thể hiện thành công tâm trạng vui mừng của nhân vật trữ tình. Đó  là tâm trạng lạc quan tin tưởng vào con đường cách mạng của người thanh  niên trẻ chưa gặp thất bại và những gian khổ trên con đường hoạt động  cách mạng. 
  
Sau giây phút đầy hào hứng và vui mừng, tâm trạng nhân vật trữ tình tạm  lắng xuống, suy tư hơn. Hai khổ thơ tiếp theo thể hiện nhận thức của  nhân vật trữ tình về con đường cách mạng mình đã chọn. Đó là sự thức  tỉnh về mối quan hệ tình cảm cách mạng, tình cảm dân tộc. Cùng thời với  Tố Hữu, nhưng khi chưa đến được với cách mạng, nhà thơ Chế Lan Viên viết  : 
  
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh 
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa 
Xuân Diệu thì cực đoan : 
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất 
Không có chi bè bạn nổi cùng ta 
  
Còn Huy Cận thì cảm thấy bơ vơ, nhỏ nhoi trước cảnh “sông dài, trời  rộng, bến cô liêu” với tâm trạng “lòng quê dợn dợn vời con nước”. Tiến  bộ như người li khách ra đi vì chí nhớn nhưng vẫn đượm buồn và phảng  phất nỗi lẻ loi đơn độc : 
  
Li khách ! Li khách con đường nhỏ 
Chí nhớn chưa về bàn tay không... 
  
Đó là tâm trạng của những thanh niên chưa tìm được vị trí của mình trong  lòng dân tộc, chưa có tình cảm cách mạng. Vẫn là một cái Tôi cá nhân   nhưng nhân vật trữ tình trong Từ ấy thì khác hẳn. Anh đã ý thức rất rõ  mối quan hệ tình cảm của mình với nhân dân : 
  
Tôi buộc lòng tôi với mọi người 
Để tình trang trải với trăm nơi 
Để hồn tôi với bao hồn khổ 
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. 
  
Khi được giác ngộ cách mạng, nhân vật Tôi coi như mình đã thuộc về dân  tộc, về nhân dân. Cái Tôi ấy không còn tách rời mà hoà trong cái Ta  chung của cả dân tộc để tạo nên khối đại đoàn kết, làm nên sức mạnh dân  tộc. Đây là một nhận thức đúng đắn, thể hiện sự giác ngộ cách mạng sâu  sắc của nhà thơ. Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh và từ ngữ có khả  năng biểu hiện rõ mối quan hệ tình cảm cách mạng : buộc, trang trải, gần  gũi, khối đời. Những từ ngữ ấy đã cụ thể hoá tình cảm cách mạng vốn là  những khái niệm rất trừu tượng. 
  
Quan niệm về lí tưởng cộng sản của nhà thơ được thể hiện rõ hơn ở khổ thơ cuối : 
  
Tôi đã là con của vạn nhà 
Là em của vạn kiếp phôi pha 
Là anh của vạn đầu em nhỏ 
Không áo cơm, cù bất cù bơ… 
  
Nhân vật trữ tình đã ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với dân tộc khi  anh dấn thân vào con đường cách mạng. Làm người cách mạng thì bản thân  mình không còn là của riêng mình nữa. Người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi  đã đặt lên vai mình nhiệm vụ cách mạng cao cả. Và anh đã sẵn sàng hi  sinh cho sự nghiệp cách mạng. Là “con”, là “em”, là “anh” của những  người cùng khổ, anh đã tự nguyện gắn mình vào mối quan hệ máu thịt với  họ, những người đã và đang chịu cảnh nô lệ lầm than. Và chính những con  người ấy là lực lượng nòng cốt của cách mạng. 
  
Người chiến sĩ trẻ hoàn toàn tin tưởng vào con đường mình đã chọn. Thái  độ của anh đầy quyết tâm và dứt khoát. Nhà thơ đã dùng biện pháp lặp từ  để biểu hiện thái độ dứt khoát của nhân vật trữ tình. Nhịp thơ mạnh cùng  những từ được lặp lại để, là đã thể hiện ý chí cánh mạng của người  chiến sĩ trẻ. 
  
Giọng điệu nổi bật của bài thơ là giọng vui tươi, dứt khoát, hào hứng và  đầy quyết tâm. Đó là giọng điệu thể hiện niềm hạnh phúc của người thanh  niên đã tìm ra con đường đúng đắn của cuộc đời mình. 
  
Từ ấy thuộc phần Máu lửa, phần đầu của tập thơ Từ ấy. Bài thơ được sáng  tác trong những ngày đầu tham gia cách mạng. Dù đã đi trên con đường  cách mạng, đã nhận thức được nhiệm vụ, trách nhiệm của người cộng sản và  phần nào hình dung được những gian khổ của cuộc đời cách mạng, nhưng  lại chưa phải trải qua những giam cầm, đày ải và sự khắc nghiệt thực sự  của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vì vậy giọng thơ là giọng điệu  lạc quan, tin tưởng và tràn đầy niềm tin hi vọng. Nhưng cũng chính niềm  lạc quan cách mạng ấy đã làm nên sức mạnh để người chiến sĩ cộng sản trẻ  tuổi có đủ sức mạnh vượt qua những gian nan khổ cực của cuộc đời hoạt  động cách mạng sau này. 
  
Với Từ ấy, nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho thơ ca Việt Nam một giọng thơ  mới, giọng thơ trẻ trung, đầy niềm tin cách mạng. Bài thơ đã giúp cho  thế hệ sau có cơ hội hiểu rõ hơn về một thời gian khổ nhưng đáng tự hào  của dan tộc mình. Nó cũng góp phần lí giải vì sao dân tộc Việt Nam lại  có đủ sức mạnh để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình như vậy.    . 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |