Nếu như nhân vật Huấn Cao là biểu tượng  về cái đẹp  với sức mạnh hướng thiện của nó, thì nhân vật viên quản  ngục được sáng  tạo ra là để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên quản  ngục thì ý đồ nghệ  thuật của nhà văn mới thực hiện được. Nhưng vai trò  cực kì quan trọng ấy  của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì  nhân vật này dường như  được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ  hai đằng sau nhân vật Huấn  Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử  tù, người đọc choáng ván,  ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn  Cao uy nghi, rực rỡ. Từng  dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh Huấn  Cao. Người đọc chẳng thiết  nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao.  Nhưng đọc thêm một vài lần  nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy  nhân vật quản ngục từ từ  hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng  một sức mạnh kì lạ. Ta  càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm  thúy của Nguyễn Tuân.  Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục  sẽ đem lại cho ta nhiều  khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị. 
  
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản,   ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về   tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết   đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ   thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến  say  mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một  ngày kia  được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao  viết”. 
  
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những   cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại   phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm,  phẩm  chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ  tồn tại  hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau  khổ,  tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp  thần  tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục  thất,  thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục.  Một  tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là  những kẻ  đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri  kỉ của  nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một  nghệ sĩ  tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho  luật pháp  của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’  ngưỡng mộ  tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp  trong quản  ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính  mạng và địa  vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn. 
  
Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, không biết quản   ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay không ? Nhân vật quản ngục bị đặt   vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn  Cao  tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình   trạng vô cùng căn thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn  khoảng,  trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít  ngày để  có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để  thành “tri  kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một  ông Huấn Cao  trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào  mà xin được  chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều  quá, y chỉ lo  mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được  mấy chữ, thì ân  hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn  phải dò xét, đề  phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này  đem cáo giác với  quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn  lần nữa xem sao rồi  sẽ liệu”. 
  
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực,   gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ   thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt   dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công   đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ  là  chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận  sáu  tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên  Huấn  Cao, rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản  ngục  không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà còn là  nhân  vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ  ngợi đăm  chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi  đấy, đầu  đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ  mặt tư lự,  bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao  xuân, bằng  lặng, kín đáo và êm nhẹ”. 
  
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có   “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh   âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô   bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là   “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản   ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do   ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan   là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục   suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ông chẳng   khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường   đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan   thấm thía thân phận lạc loài, cô đơn giữa chốn tù ngục của chính mình,  y  than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có  lẽ  hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông   Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu   hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm   đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng   biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp,  say  mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì   “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp   nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu   hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy  lâu,  nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống  trước tử  tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông Huấn. Y  không  oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc  trời quấy  nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có  ai nữa,  huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản  chất, đó  là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện.  Hành động  biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng  đến cuối  tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái  chữ đẹp  nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao  quý của  một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông  Huấn thuyết  phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông  Huấn Cao đã  cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn  liên tài” của  ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ  của hai con  người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được  đánh dấu bằng  dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái  lĩnh” và kèm  theo một cái vái. 
  
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự   kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở   nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên   bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề   bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững. 
  
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn   Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể   hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái   thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt   Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách. 
  
 Sưu tầm 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |