Ca dao là tiếng đàn muôn điệu của tâm hồn người bình dân. Bên cạnh những    giai điệu tươi vui và rộn ràng, ta còn nghe vọng không ít những khúc    nhạc buồn thương ai oán. Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh,    những cảnh đời trắc trở, éo le. Nổi bật hơn cả là tiếng than của  người   phụ nữ. Bao nhiêu tâm sự, sầu đau, phiền muộn không thể tỏ bày  cùng ai,   phụ nữ gửi trọn vào những câu hát than thân. Có lẽ vì vậy, ca  dao than   thân đã khắc họa một cách chân thực và đậm nét bi kịch của  những thân   phận đàn bà trong xã hội ngày xưa. Đến với ca dao, ta bắt  gặp vô vàn   những nỗi đau của người phụ nữ, trong đó có lẽ bi kịch thân  phận, bi   kịch lỡ duyên và bi kịch hôn nhân là những nỗi đau nhức nhối  và dai dẳng   nhất. 
 
1. Bi kịch thân phận: 
 
Trong xã hội phong kiến, dưới cái bóng của chế độ nam quyền, người phụ    nữ luôn bị coi thường. Đàn bà, con gái chỉ đảm nhận vai trò của một    người mẹ, người vợ, suốt ngày quẩn quanh nơi xó bếp, đồng ruộng với công    việc nội trợ, đồng áng. Thế nhưng, người phụ nữ ý thức rất rõ giá trị    thực sự của mình, giá trị tiềm tàng nằm ẩn trong vẻ đẹp hình thể lẫn  vẻ   đẹp tâm hồn. Những hình ảnh ví von “tấm lụa đào”, “giếng giữa  đàng”,  “củ  ấu gai” mà ta hay bắt gặp trong ca dao chính là biểu tượng  cho  những vẻ  đẹp ấy. Họ mềm mại, tươi mát, quý giá, sáng trong như  những  viên ngọc  quý của cuộc đời. Lẽ ra những con người như thế phải  được xã  hội đề cao,  nâng niu và trân trọng. Thế nhưng, không biết bao  nhiêu cô  gái đã phải  khóc trong ai oán : 
 
“ 
Thân em như tấm lụa đào 
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.” 
 
 
Hay 
 
“Thân em như giếng giữa đàng 
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”. 
 
Hay 
 
“Thân em như cột đình chung 
Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi.” 
 
Vừa tự hào với đời, người phụ nữ lại ngay lập tức phải trở về với thực    tại, nơi mà những giá trị chân, thiện, mĩ của họ chỉ còn là ảo ảnh, hư    không. Công thức ngôn từ “thân em như” gợi cảm giác yếu đuối, mong  manh.   Người phụ nữ bị đặt lên bàn cân của người sở hữu và được đánh  giá, xem   xét dựa trên giá trị sử dụng như những món hàng, vật dụng tầm  thường   khác. Cuộc đời bị đẩy đưa một cách vô định ngoài tầm tay với  của họ. Còn   nỗi đau nào hơn nỗi đau không làm chủ được số phận của  mình ? Bất an,   vô định, người phụ nữ gửi trọn những đau đớn ấy vào câu  ca tiếng hát  làm  thành chất bi có tính đặc trưng trong nội dung của  ca dao than  thân. 
 
2. Bi kịch lỡ duyên 
 
a) Nỗi đau bị phụ tình: 
 
Không chỉ trong quan hệ xã hội người phụ nữ mới bị xem thường mà ngay    trong tình yêu, hôn nhân, vị trí và giá trị của họ cũng không được đề    cao. Người con gái luôn tự xem mình là “bến nước”, “cây đa” kiên định    đợi chờ, thủy chung, son sắt. Cũng chính vì thế, phụ nữ dễ rơi vào cảnh    bị phụ bạc, bị bỏ rơi và phụ nữ luôn là người gánh chịu mọi khổ đau  khi   tình yêu, hôn nhân tan vỡ. Có thể nói, ca dao đã thể hiện một cách   chân  thực và sâu sắc những bi kịch lỡ duyên của người phụ nữ. 
 
Người con trai vốn tính đa tình, thích “trêu hoa ghẹo nguyệt” nên    chuyện: “Có mới thì nới cũ ra, Mới để trong nhà, cũ để ngoài sân” cũng    là điều khó tránh khỏi. Khi những cuộc tình “đứt gánh giữa đường”, dòng    nước mắt đầy xót xa của những kiếp đàn bà dang dở cứ nối tiếp nhau  chảy   mãi trong ca dao. Những giọt nước mắt ấy nhỏ xuống tận sâu tâm  hồn họ  và  lắng lại trong ca dao những dòng xúc cảm trào dâng, mãnh  liệt như  tiếng  vỡ òa trong đau đớn : 
 
“Ngày nào anh bủng anh beo 
Tay cất chén thuốc tay đèo múi chanh 
Bây giờ anh khỏi anh lành 
Anh mê nhan sắc anh tình phụ tôi.” 
 
Hay 
 
“Từ ngày tôi ở với anh 
Cha mẹ đánh mắng anh tình phụ tôi 
Có thịt anh tình phụ xôi 
Có cam phụ quýt, có người phụ ta 
Có quán tình phụ cây đa 
Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn.” 
 
 
Hay 
 
“Anh nói với em như rìu chém xuống đá 
Như rạ chém xuống đất, 
Như mật rót vào tai 
Bây giờ anh đã nghe ai 
Bỏ em ở chốn non đoài bơ vơ.” 
 
 
Nhưng lạ thay, dù bị phản bội, dù là người chịu thiệt thòi trong tình    yêu, người phụ nữ vẫn không hề tỏ ra tuyệt tình, căm phẫn.. Rõ ràng là    “tôi”-“anh” mà ta nghe vẫn như tiếng gọi “thiếp”- “chàng” thiết tha, da    diết. Rõ ràng lớp vỏ ngôn từ là “phụ tình”,”bạc tình”, “trách” mà ta   vẫn  có cảm giác người con gái đang cố gắng trong bất lực để níu kéo   chàng  trai, vẫn thấy cái tình quyến luyến, nồng thắm trong lòng họ đang   cháy  âm ỉ cháy trong hi vọng mong manh. Ca dao với thể thơ lục bát   giàu nhạc  điệu và những đặc trưng rất riêng về mặt ngôn từ không những   cho thấy  nỗi đau mà còn toát lên được vẻ đẹp tâm hồn, lòng vị tha và  sự  chung  tình của phụ nữ xưa. 
 
b) Nỗi đau tình duyên bị ngăn cấm 
 
Có thể nói, chính những quan niệm xã hội khắt khe, vốn đã giam cầm người    phụ nữ trong vách ngăn của nỗi mặc cảm thân phận, bây giờ lại một lần    nữa đẩy tình yêu của họ đến chỗ tan vỡ không thành. Phải chăng những    quan niệm cổ hủ, lạc hậu, phi lí mới thực sự là vật cản bước chân  người   phụ nữ trên hành trình kiếm tìm và góp nhặt hạnh phúc? Lại một  lần khát   khao mà không thể có được hạnh phúc nghĩa là thêm một bi kịch  nữa xuất   hiện trong cuộc đời người phụ nữ ngày xưa. Vì vậy, trong ca  dao, ta  bắt  gặp không ít những cuộc tình đổ vỡ bởi những lề thói khắc  khe của  chế độ  phong kiến. 
 
“Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi 
Biết rằng có được ở đời với nhau 
Hay là vào trước ra sau 
Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng.” 
 
 
hay: 
 
“Lửa nhen mới bén duyên trầm 
Trách sao cha mẹ nỡ cầm duyên con.” 
 
 
hay: 
 
“Chanh chua quít ngọt đã từng 
Còn cây khế chín trên rừng chưa ăn 
Hay là thầy mẹ cấm ngăn 
Không cho đôi lứa đắp chăn cùng giường.” 
 
 
Mấy ai thấu hiểu được nỗi đau của những thân gái bị cha mẹ ép duyên,    phải vùi lấp cả tuổi xuân trong những cuộc hôn nhân được sắp đặt trước : 
 
“Mẹ em tham thúng xôi rền 
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng. 
Em đã bảo mẹ rằng đừng 
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào 
Bây giờ chồng thấp vợ cao 
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng .” 
 
 
Dẫu rằng những nỗi đau ấy không chua chát, đắng cay bằng nỗi đau bị phụ    tình nhưng nó cũng đã đẩy người phụ nữ lùi xa thêm một bước nữa trên   con  đường đến với hạnh phúc. 
 
2. Bi kịch hôn nhân: 
 
Cuộc đời phụ nữ đâu chỉ phải gánh chịu những bất hạnh trong tình yêu,    khi đã tìm được bến đỗ của cuộc đời, cứ ngỡ rằng họ sẽ hạnh phúc, thế    nhưng họ cũng phải đối mặt với vô vàn những trái ngang, nghịch cảnh. Nổi    bật lên trong ca dao xưa là nỗi đau của những thân gái phải chịu kiếp    “chồng chung” . 
 
Nỗi đau của những người vợ cả có lẽ không được đề cập một cách rõ nét    trong ca dao, bởi ít nhất họ cũng có danh phận. Nhưng trong niềm cảm    thương cho những kiếp chồng chung, thấp thoáng đâu đó ta bắt gặp những    nạn nhân của thói “có mới nới cũ”. Người đời thường nói: đàn ông yêu    bằng mắt. Bởi vậy, những người vợ cả thường là những kẻ yếu thế trong    cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chốn tình trường. Nhưng xét cho cùng, sự    phai tàn xuân sắc của họ là kết quả của những tháng năm dài hi sinh vì    chồng, vì con. Ấy vậy mà đáp lại mong ước giản dị của họ là sự phụ  bạc   phũ phàng của những ông chồng gió trăng: 
 
“Có lá lốt tình phụ xương sông 
Có chùa bên Bắc, bỏ miếu bên Ðông tồi tàn.” 
 
 
Hay 
 
“Gió đưa bụi chuối sau hè 
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ 
Con thơ tay ẵm tay bồng 
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.” 
 
 
Bước ra từ những đổ vỡ ấy, những người vợ chợt nhận ra niềm vui gia    đình, hạnh phúc hôn nhân mà trước đây cuộc đời đã hào phóng ban tặng cho    họ thực chất chỉ là ảo tưởng xa vời. Họ lại trở về là chính họ, những    con người chưa từng mảy may chạm tới được thiên đường hạnh phúc ! 
 
Nhưng đau đớn hơn cả những người vợ cả là kiếp làm lẽ. Nào ai hiểu hết    những nỗi niềm không thể tỏ bày, họ chỉ biết mượn ca dao để giải tỏa    những phiền muộn chất chứa trong lòng : 
 
“Thân em làm lẽ chẳng nề 
Đâu như chánh thất mà lê lên lên giường 
Tối tối chị giữ mất chồng 
Cho một manh chiếu nằm suông chuồng bò 
 
và còn : 
 
“Thân em làm lẽ vô duyên 
Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời 
Ai ơi ở vậy cho rồi 
Còn hơn làm lẽ, chồng người khổ ta.” 
 
Nếu như những bi kịch thân phận hay bi kịch bị phụ tình là những bi kịch    rất dễ nhận thấy ở người phụ nữ, họ dễ được cảm thông chia sẻ thì bi    kịch làm lẽ có lẽ chỉ họ mới thấu hết ! Không có hạnh phúc, mất đi  hạnh   phúc liệu có đau hơn phải xé lẻ hạnh phúc, nhất là trong hôn  nhân, nơi   mà mỗi con người đều mong muốn được hưởng hạnh phúc trọn  vẹn, tuyệt đối  ?  Đọc ca dao, ta mới vỡ lẽ ra rằng cái “kiếp chồng  chung”, “chồng  người”  lại đắng cay và khổ đau hơn bội phần cái kiếp  không chồng. 
 
Ngoài những bi kịch trên, trong ca dao, ta còn bắt gặp những bi kịch    khác của người phụ nữ. Đó là những cảnh đời cô đơn chiếc bóng : 
 
“Chòng chành như nón không quai 
Như thuyền không lái, như gái không chồng.” 
 
 
Hay rỉ mòn trong kiếp goá bụa: 
 
“Gió đưa cây trúc ngã quỳ 
Ba năm chực tiết còn gì là xuân.” 
 
 
Đó là những nạn nhân của tục tảo hôn : 
 
“Bữa cơm múc nước rửa râu 
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm 
Đêm đêm dắt cụ đi nằm 
Than thân phận gái ôm lưng lão già 
Ông ơi ông buông tôi ra 
Kẻo người ta thấy, người ta chê cười.” 
 
Ca dao đã cho thấy cái tài của người bình dân trong việc thể hiện cái    bi. Sự khéo léo ở đây là nét buồn không lộ ra trên câu chữ mà vẫn khiến    cho bao trái tim người đọc phải xót xa, thương cảm. Những mảnh đời phụ    nữ xưa từ khắp các nẻo đường đời đều về trong ca dao với một tiếng  than   chung: bất hạnh. Nhưng, qua ca dao, ta không chỉ thấy được những   khoảng  tối trong cuộc đời của phận đàn bà mà dường như còn thấy được   tiếng nói  phản kháng, đấu tranh của nhân dân được cất lên bằng một niềm   tin, niềm  hi vọng về một tương lai hạnh phúc. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |