Nguyễn Khuyến có tên là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Sinh ngày 15-2-1835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất Mùi). 
 
Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có  truyền thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vùng Treo Vọt, huyện Can Lộc,  Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đổ, cho đến thời nhà thơ đã được năm trăm năm. Cụ  bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Hiến  sát sứ Thanh Hóa. Ông thân sinh nhà thơ là Nguyễn Liễn, vẫn theo đòi nho  học, đỗ 3 khoa Tú tài, chuyên nghề dạy học để kiếm sống ở xứ vườn  Bùi.Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khê, tục gọi là  làng Ngòi, nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. 
 
Thủa nhỏ Nguyễn Khuyến học cha. Năm 1825, đi thi Hương lần thứ nhất cùng  với cha, song không đỗ. Ngay năm sau, địa phương có dịch thương hàn,  ông mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột, bố mẹ vợ chồng cùng nhiều họ  hàng thân thuộc đều qua đời. Gia đình ông lâm vào cảnh “Tiêu điều, xơ  xác, đời sống ngày càng đói rét ”. Bà mẹ phải may thuê và đi làm mướn  lần hồi, còn ông thường phải “sách đèn nhờ bạn, một ngày học mười ngày  nghỉ ”. Từ năm 1854, đi dạy học lấy lương ăn để tiếp tục học và đi thi.  Song trong các khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858 đều bị trượt. 
 
Có lúc, ông đã nản đường khoa cử, định chuyển nghề dạy học để kiếm sống  và nuôi gia đình, thì được người bạn là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn  và khuyên đến cùng học với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ,  huyện Nam Xang (Lý Nhân ngày nay). Bà mẹ ông cũng ân cần, nghiêm khắc  khuyên con chớ thoái chí. Do vậy, khoa thi 1864 ông mới đỗ Cử nhân đầu  trường Hà Nội. Tiếp theo ông thi Hội các khoa 1865, 1868 đều bị trượt.  Ông ở lại Huế, vào học Quốc Tử Giám, khoa năm 1869 lại trượt. Cho đến  khoa năm 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình, khi ông đã 37  tuổi. 
 
Dưới triều Nguyễn, cho đến lúc đó mới chỉ có hai người đỗ Tam nguyên (đỗ  đầu cả 3 kỳ thi), thì Nguyễn Khuyến là một. Nhưng khác với Trần Bích  San (quê ở Vị Xuyên, Nam Định), ông phải lận đận gần 30 năm trời đèn  sách, với 9 khóa lều chõng, đó là một cố gắng phi thường. 
Đầu tiên, ông được bổ làm Sử quan trong triều; năm 1873, ra làm Đốc học  Thanh Hóa, rồi thăng nhanh lên Án sát tỉnh. Năm 1874, ông phải mang quân  chặn quân khởi nghĩa (mà sử cũ gọi là lệ phỉ) phạm vào tỉnh Thanh ở  vùng Tĩnh Gia, Nông Cống. Đúng lúc ấy bà mẹ ông mất. Ông phải nghỉ ba  năm về quê cư tang mẹ. Hết tang, ông vào triều giữ chân Biện lý bộ Hộ.  Năm 1877 lại ra làm quan ngoài, giữ chức Bố chính Quảng Ngãi. Rồi làm  Toản tu ở Sử quán, từ 1879 đến 1883, vẫn sống trong cảch thanh bần, lại  thêm đau yếu, ông đã có tâm trạng chán ngán cảnh quan trường. 
 
Năm 1883, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Rồi Tự Đức chết  (19-7-1883), triều Nguyễn phải ký hiệp ước Harmand ngày 25 tháng 8 năm  1883. Nguyễn Khuyến đã được cử làm Phó sứ sang Mãn Thanh. Ông đã ra Bắc,  nhưng chuyến đi sứ ấy bị bãi. Ông lấy cớ đau yếu, xin tạm về quê dưỡng  bệnh, thì trung tuần tháng 12 năm 1883, triều Nguyễn cử ông làm tổng đốc  Sơn Hưng Tuyên, song ông không chịu đến nhận chức, mà chính thức cáo  quan về nghỉ hưu khi mới 50 tuổi. 
Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-2-1909 (tức 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu), thọ 75 tuổi. 
 
+ Các tác phẩm gồm có : Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi  văn tập, Cẩm Ngữ và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền  miệng. 
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ  Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi  dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang  chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện. 
 
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là  nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương.  Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh  vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |