Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động  của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân  tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế  độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc  sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp  qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ  thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ  nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm  thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi. 
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ  quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí  của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo  điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh  đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch.  Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm  về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý  vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy. 
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị : 
Một mai, một cuốc, một cần câu 
Thơ thẩn dù ai vui thú nào 
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã  trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một  cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư,  tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú  khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất  dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo,  mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật  sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm  cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động  quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không  vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận  ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con  người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã  nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một  triết lí nhân sinh vững bền. 
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh: 
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ 
Người khôn người kiếm chốn lao xao 
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai ,  những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc  đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ  xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta,  một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng  sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho  thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định  nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại –  khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn  là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào  dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng  cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao  . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không  vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở  xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã  cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán  vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân  quân tử không bận tâm những trò khôn - dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới  cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản : 
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá 
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao 
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn  Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng  một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa  Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để  gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh  đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà  nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, «  thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu  hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà  hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong  sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ  sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của  người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên  là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan  niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng  định : 
Rượu đến cội cây ta sẽ uống 
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao 
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái  độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ  gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời  đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những  kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất  nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình : 
Ở thế mới hay người bạc ác 
Giàu thì tìm đến, khó thì lui 
(Thói đời) 
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của  bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy  chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài  thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn  xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống  gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người  bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho  nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim  tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm  sống lành vững tốt đẹp của nhân dân. 
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn  Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với  thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với  cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là  kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |