Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ kết thúc với sự thất bại  của Âu Lạc, An Dương Vương đi vào lòng biển, Mị Châu, Trọng Thuỷ phải  chết. Tuy kết thúc có phần đau đớn song câu chuyện không vì thế mà quá  bi thương bởi trong sâu thẳm vẫn sáng lên niềm tin, chất nhân văn sâu  sắc qua hình ảnh “ngọc trai - giếng nước”. 
 
Chúng ta có thể thấy rằng “ngọc trai - giếng nước” vừa là hình ảnh có  giá trị thẩm mĩ cao, vừa là một tình tiết đắt xét về phương diện tổ chức  cốt truyện. Nó là sự kết thúc duy nhất hợp lí cho số phận của đôi trai  gái Mị Châu, Trọng Thủy, cùng với sự thể hiện tư tưởng, tình cảm, cách  đánh giá của nhân dân đối với bi kịch tình yêu này nói chung, nhân vật  Mị Châu nói riêng. 
 
Nàng Mị Châu bởi nhẹ dạ, cả tin làm nên nổi “cơ đồ đắm biển sâu”. Nàng  đã phải nhận lấy cái chết cho danh nghĩa một kẻ bất hiếu, phản nghịch..  Nhưng sâu xa, tác giả dân gian đã thấu hiểu nỗi lòng một người con gái  ngây thơ, trong trắng vì tình yêu đã vô tình gây nên tội mà đã cho nàng  được hoá thành những viên ngọc trai. Những viên ngọc trai lấp lánh như  đáp lại lời cầu nguyện của nàng trước khi vua cha chém đầu. Nàng không  phải là người có lòng phản nghịch muốn hại cha, nàng là người có lòng  trung hiếu nhưng vô tình bị người ta lừa dối. Những viên ngọc ấy ẩn sâu  trong lớp vỏ trai dưới làn nước đầy bụi bẩn vẫn thanh lọc để sáng lên  như chính tâm hồn ngây thơ trong trắng của Mị Châu. Ánh sáng ngọc trai  ám ảnh tâm trí người đọc, tìm sự chia xẻ, đồng cảm. 
 
Tác giả dân gian đã có tấm lòng vô cùng độ lượng khi thấu hiểu và cảm  thông với nàng Mị Châu. Để nàng được toại nguyện biến thành ngọc trai.  Sự hoá thân ấy mang theo một ước mơ của nhân dân về những Mị Châu sáng  suốt sau này, “vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác”. 
 
Nói về Trọng Thuỷ. Hắn là một kẻ chiến thắng trên phương diện chính trị  nhưng lại là kẻ thất bại thảm hại về phương diện tình cảm. Hắn đã mất đi  người vợ yêu quí, mất đi sự thanh thản trong tâm hồn và càng ám ảnh hơn  chính hắn gây nên cái chết Mị Châu trong trắng, ngây thơ hết lòng yêu  thương hắn. Giếng nước ở Loa thành là tấm gương hội tụ và phản chiếu tất  cả tội ác mà Trọng Thuỷ gây nên. Chính ở nơi này hắn nhìn thấy bản chất  xấu xa của mình và thực lòng hối cải. Trọng Thuỷ nhảy xuống giếng tự  vẫn, dòng máu hoà dòng nước nơi giếng ngọc là sự chứng nhận cho sự hối  cải tội lỗi của hắn. 
 
Từ tương truyền, nếu dùng nước giếng ở Cổ Loa mà rửa ngọc thì ngọc thêm  sáng hơn, có người cho rằng, hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” là hình  ảnh ngợi ca mối tình thuỷ chung của Mị Châu - Trọng Thuỷ. Nhưng thiết  nghĩ, với tinh thần yêu nước, cha ông ta sẽ không bao giờ sáng tạo nghệ  thuật để ngợi ca những ai đưa họ đến bi kịch mất nước. Chỉ có thể lí  giải rằng, hình ảnh ngọc sáng hơn bởi ở thế giới bên kia Mị Châu đã tha  thứ, hoá giải tội lỗi cho Trọng Thuỷ. Màu ngọc ấy cũng sáng như tấm lòng  yêu thương, vị tha của công chúa Mị Châu. Hư cấu chi tiết này, người  xưa còn muốn giảm nhẹ bớt tội lỗi của nàng trong việc mất cảnh giác làm  nước mất, nhà tan. 
 
Để Mị Châu biến thành ngọc trai, Trọng Thuỷ tự vẫn nơi giếng nước và để  hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” sáng là tạo nghệ thuật đẹp tới mức  hoàn mĩ. Đó chính là tấm lòng nhân đạo bao dung, nhân hậu của nhân dân.  Nó thể hiện truyền thống nhân văn sâu sắc. 
 
Chúng ta không thể không nhắc tới Trọng Thuỷ. Một nhân vật với vị trí và bản chất khá phức tạp trong cốt truyện. 
Trọng Thuỷ là con Nam Việt vương Triệu Đà - luôn có âm mưu thôn tính Âu  Lạc. Trọng Thuỷ sang Âu Lạc với mục đích giảng hoà để đánh cắp nỏ thần.  Trước lúc cầu hôn Mị Châu, Trọng Thuỷ chưa hề có cảm tình mà chỉ là toan  tính. Đến khi trở thành vợ chồng với Mị Châu, tình yêu của Trọng Thuỷ  mới nảy nở. Nhưng ý thức làm con, làm tôi trung thành trong hắn vẫn lớn  hơn. Hắn dối lừa người vợ cả tin, ngây thơ của mình để đánh cắp nỏ thần,  thôn tính nước Âu Lạc, dồn An Dương Vương và Mị Châu đến bước đường  cùng. Hắn đúng là tên gián điệp nguy hiểm trong cái nhìn của cha ông  chúng ta. Hắn xứng đáng phải chịu nỗi ân hận vò xé tâm can khi dẫn đến  cái chết của người vợ yêu quí. Không có nổi khổ nào bằng sự day dứt  lương tâm. Bản án đích đáng của Trọng Thuỷ là cái chết trong nổi ám ảnh.  Nhân dân đã bày tỏ thái độ căm phẫn không tha thứ và không đội trời  chung với kẻ cướp nước. Kẻ cướp nước sẽ bị toà án lương tâm và lịch sử  phán xét, sớm muộn chúng sẽ thất bại thảm hại trong cuộc chién tranh  chính nghĩa bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Đấy là niềm tin  mạnh mẽ của nhân dân trước những thử thách của lịch sử. 
 
Song không vì lòng căm phẫn mà khiến dân gian đánh mất đi truyền thống  nhân văn sâu sắc của dân tộc. Hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” chính là  sự khoan hồng, ân xá cho kẻ đã biết ân hận, khát khao được hoá giải tội  lỗi như Trọng Thuỷ. 
 
Mỗi nhân vậtutrong truyền thuyết này được nhìn nhận, đánh giá, định đoạt  số phận một cách khác nhau. Ở đối tượng này có hơi dễ dãi, (như đối với  An Dương Vương) ở đối tượng kia có phần hơi nghiêm khắc (như đối với Mị  Châu). Song nhìn chung những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử ấy đã  được cảm nhận ghi lại bằng tất cả lòng nhiệt thành, tự tôn dân tộc. Và  nhất là, cái sâu sắc nhất đọng lại sau mỗi số phận nhân vật là tình  người, chất nhân văn truyền thống. 
 
Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là một truyền thuyết đẹp,  để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Câu chuyện là một  cách giải thích nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc. Qua đó nêu lên bài học  lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mỗi  quan hệ giữa riêng với chung, giữa nhà với nước, giữa cá nhân với cộng  đồng. Thể hiện chất trí tuệ sắc sảo, bản chất nhân đạo sâu sắc của dân  tộc Việt Nam ta. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |