Bút pháp của  đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ  thuật tả cảnh tả tình được người đời sau khen ngợi "như máu chảy ở đầu  ngọn bút" và "thấu nghìn đời". Xin giới thiệu bài viết của nhà phê bình  Trần Ngọc về Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều. 
  
 Đoạn  Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn  chương tuyệt tác trong lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị  về mọi mặt: tư tưởng, triết lý, luân lý, tâm lý và văn chương. 
  
 Truyện  Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ  các bậc cao sang quyền quý, trí thức khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến  những người bình dân ít học, ai cũng biết đến truyện Kiều, thích đọc  truyện Kiều, ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều. 
  
 Giá  trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá  trị văn chương lại giữ một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này,  chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du  trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều .. 
  
 Nghệ  thuật tả cảnh của Nguyễn Du nói chung rất đa dạng, tài tình và phong  phú. Chính Nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá  trị cho truyện Kiều. 
  
 Lối tả cảnh diễm tình . 
  
 Đây  là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan, man mác khắp trong truyện Kiều.  Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính  hoặc phụ ẩn chứa trong đó. Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý  luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật.  Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay  một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ  quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ: 
  
 “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu 
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” 
  
 Trong  khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các  thi nhân khác, kể cả những thi sĩ Phương Tây, vốn rất thiện nghệ trong  lối tả cảnh ngụ tình. Trong khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều, nghĩa  là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì  mới ghi vào, còn Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại  đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt  vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy  hai mà một, tuy một mà hai.. 
  
 Ví  dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về, tới bên chiếc cầu bắc ngang  một dòng sông nhỏ gần mả Đạm Tiên, thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy  nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà : 
  
 “Nao nao dòng nước uốn quanh 
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” 
  
 “Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu. 
  
 Hình  ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh  nửa mê, chập chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên: 
  
 “Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành 
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu” 
  
 Chàng biếng nhác cả việc sách đèn, để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập phồng qua màn cửa : 
  
 Buồng văn hơi giá như đồng 
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan 
 Mành Tương phất phất gió đàn 
 Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình. 
  
 Rồi  những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng  sông kia bỗng sao trở thành kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình: 
  
 Sông Tương một giải nông sờ 
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia 
  
 Một  đoạn tả cảnh khác, tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim  Trọng sau khi hộ tang cha, về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng  người xưa nay còn thấy đâu, chỉ còn cảnh vườn hoang, cỏ dại lạnh lùng  dưới ánh trăng. 
  
 Đầy vườn cỏ mọc lau thưa 
         Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời 
  
 Lần  thứ hai, Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì  cảnh nhà bây giờ thật sa sút , sân ngoài cỏ hoang mọc dại, ướt dầm dưới  cơn mưa, tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng: 
  
 Một sân đất cỏ dầm mưa 
              Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường 
  
 Khi  Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm, với  những cánh buồm xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bèo không định hướng  của mình : 
                                          Buồn trông cửa biển chiều hôm 
                                         Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa 
                                                  Buồn trông ngọn nước mới sa, 
                               Hoa trôi man mác biết là về đâu? 
  
 Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri, thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu hắt như hàng lau bên vệ đường: 
  
 Gió chiều như gợi cơn sầu 
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu 
  
 Và  khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà, thì cảnh một đêm thu có trăng sáng   nhưng cũng lạnh lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều : 
  
 Lối mòn cỏ nhạt màu sương 
    Lòng quê đi một bước đường một đau 
  
 Lúc  thất vọng não nề, muốn gieo mình xuông sông Tiền Đường cho rũ nợ trần,  tâm sự Kiều cũng như mảnh trăng sắp tàn, chẳng còn chút gì lưu luyến nơi  thế gian: 
  
 Mảnh trăng đã gác non đoài 
          Một mình luống những đứng ngồi chưa xong 
 Lối tả chân. 
  
 Ngoài  lối tả cảnh diễm  tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng  nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh  đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi  sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo.Chỉ cần một vài nét phác họa  với những điểm chính hiện hữu . 
  
 Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn, vừa giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ: 
  
 Đánh tranh chụm nóc thảo đường 
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. 
  
 Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh mộtmái tranh nghèo rách nát tơi tả theo tháng ngày: 
  
 Nhà tranh vách đất tả tơi 
           Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa 
  
 Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả : 
  
 Long lanh đáy nước in trời 
           Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng 
  
 Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ : 
  
 Dưới cầu nước chảy trong veo 
     Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha 
  
 Khi  chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm  đạm: cơn gió đìu hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo  sương chiều : 
  
 Một vùng cỏ áy bóng tà 
      Gió hiu hiu thổi một vài bông lau. 
  
 Cảnh  thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt, mà đường  tới thì quanh co theo giải sông, có khu rừng lau như cách biệt với cuộc  sống rộn rã bên ngoài: 
  
 Quanh co theo giải giang tân 
      Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường 
  
 Nghệ  thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có  nhận định như sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những bức  tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu  nhung” (Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu) 
  
 Hãy  xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước, đẹp lãng đãng  như nỗi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần  đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng, nước và sân nhà đã đủ diễn tả một  khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh : 
  
 Gương nga chênh chếch dòm song 
      Vàng gieo ngấn nướ , cây lồng bóng sân 
 Lối tả cảnh tượng trưng: 
  
 Nguyễn  Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ  dùng một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển  chuyển và tinh tế  
  
 Hãy nghe hai câu thơ : 
 Vi lô san sát hơi may 
           Một trời thu để riêng ai lạnh lùng 
  
 Đó  là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh.  Lối tả cảnh này có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của  mình chứ không hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách  tượng trưng bằng những vần thơ. Mãi đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào thế  kỷ 19, lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà  các nhà phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của  Giáo sư Hà Như Chi. 
  
 Nên  để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để  rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé (luận giải của Giáo Sư Hà  Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận). Trong hai câu thơ trên, “một  trời thu” mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la, trong khi bốn chữ  “riêng ai một mình” lại chỉ một phạm vi nhỏ bé, một tâm tình đơn lẻ cá  nhân. 
  
 Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như : 
  
 Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng 
   Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mìn 
  
 Đó  là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên  nhà để rồi chuyển sang, ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lòng Kiều cô  đơn. (Cần chú ý thêm là cách dùng điệp ngữ một cách tài tình khéo léo  của Nguyễn Du, với chữ “nghiêng” và “riêng” được lập đi lập lại nhiều  lần mà vẫn cảm thấy hay). Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh  tượng trưng ngược lại , nghĩa là đem tấc lòng nhỏ bé của con người cho  tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn của trời đất. 
  
 Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau: 
  
 Người lên ngựa kẻ chia bào 
               Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. 
  
 Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người, nhưng đã làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật chung quanh. 
  
 Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời, mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dòng bao la của sông Tiền Đường : 
  
 Cửa bồng vội mở rèm châu 
       Trời cao sông rộng một màu bao la. 
  
 Nói  về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã viết:  “tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt” 
  
 Lối tả cảnh dùng màu sắc. 
  
 Nghệ  thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như  bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng, một yếu tố  cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự pha chế sao cho làm nổi  được cảnh chính và cảnh phụ . 
  
 Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du: 
  
 Cỏ non xanh tận chân trời 
           Cành lê trắng điểm một vài bông hoa 
  
 Thật  là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt  bao la, nổi những bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng  như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều đi dự lễ Thanh Minh. Ở đây  cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “cành lê  điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết: “cành lê trắng điểm  một vài bông hoa”. Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn  trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát, nhưng cũng phải công nhận đó là  một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được . 
  
 Cũng một cảnh cỏ xanh nữa, nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong: 
  
 Một vùng cỏ mọc xanh rì 
             Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu. 
  
 Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hoàng hôn: 
  
   Long lanh đáy nước in trời 
              Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng. 
  
 Một  cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm, chỉ có màu nâu của đất, màu xanh  vàng của cỏ úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên: 
  
 Sè sè nắm đất bên đường 
        Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh 
  
 Nói  chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt  là của hoàng hôn, của cây cỏ, của trăng và của nước là những màu sắc thi  vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm, cũng chỉ vì truyện  Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui. 
  
 Giáo  sư Hà Như Chi nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau :  “Nguyễn Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng ấy,  mà lại còn tả một cách gián tiếp , cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn  cỏ, lá cây mặt nước, đỉnh núi …” (Việt NamThi Văn Giảng Luận) 
  
 Đúng  như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe  trong mùa hạ, khi mùa nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi  một đêm trăng : 
  
 Dưới trăng quyên đã gọi hè 
         Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông 
  
 Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh. 
  
 Nguyễn  Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý, nhưng gặp phải  cảnh loạn lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn, đã phải về  quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ đã trải qua những ngày sống trong  phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên trong tâm hồn đã  thu nhập được hai cảnh sống. Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống  đó, nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều, cụ có khi  dùng những chữ thật trang nhã quý phái, có khi lại dùng những chữ thật  giản dị bình dân. 
  
 Những  chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên,  thiết tưởng chẳng cần lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những chữ rất  bình dân mà Nguyễn Du dùng trong lúc tả cảnh. 
  
 Ví  dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hoàng hôn , Nguyễn  Du dùng hai chữ “tà tà” chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em  Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm  của mặt trời chiều: 
  
 Tà tà bóng ngả về tây 
         Chị em thơ thẩn dan tay ra về. 
  
 Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “sè sè” bên đường, chen lẫn vài ngọn cỏ úa : 
  
 Sè sè nắm đấ bên đường 
           Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh. 
  
 Rồi ngọn gió gọi hồn “ào ào” thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi :             Ào ào đổ lộc rung cây Ở trong dường có hương bay ít nhiều. 
  
 Hay  cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà không thấy nàng, chỉ  thấy cánh én xập xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong: 
  
 Xập xè én liệng lầu không 
     Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy . 
  
 Và đêm xuống ánh trăng soi “quạnh quẽ” lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng cỏ dại mọc lưa thưa: 
  
 Đầy vườn cỏ mọc lau thưa 
          Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời 
  
 Chính  vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân  một cách tài tình nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã  hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt thành. Những chữ mộc mạc bình  dân đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam trên con đường  xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà Nguyễn Du đã tiên phong dấn  bước. 
  
 6. Lối dùng điển tích trong tả cảnh . 
  
 Nguyễn  Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình.  Nhưng khác với những nhà thơ khác , thường dùng điển tích chỉ vì chưa  tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để thay thế . Nguyễn Du thì khác, cụ đã  dùng điển tích để “làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu loát tự  nhiên, không cầu kỳ thắc mắc” như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt  Nam Thi Văn Giảng Luận). Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du  dùng chính đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam, thậm chí  nhiều điển tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt Nam, mà nói tới ai  ai cũng hiểu ý nghĩa đại cương của nó. Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót  sen, Sư tử Hà Đông, kết cỏ ngậm vành, mây mưa, ba sinh, chắp cánh liền  cành ..v...v . 
 Những  điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình  tả  tâm trạng, tả tiếng đàn, trải dài trong suốt truyện Kiều. 
  
 Riêng  trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp  nhiều điển tích cho lắm. Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ. 
  
 Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh trăng ngà  
  
                                 “Gương nga chênh chếch dòm song 
                                       Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân ” 
  
        “Gương Nga”chỉ mặt trăng, do tích Hằng Nga, mỹ nhân, vợ của Hậu  Nghệ, đánh cắp và uống hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây  Vương Mẫu. Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt trăng. Từ đó người ta thường  gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng, chị Nguyệt . 
  
 Hai câu thơ khác : 
 Sông Tần một giải xanh xanh 
           Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan 
  
 Sông  Tần lấy từ câu “dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý nói ở xa  nhìn nước sông Tần như nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cửa ải xa  ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một  sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về  thăm vợ cũ là Hoạn Thư. 
  
 Hay:                          Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân 
                                       Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung 
  
 Chữ Khóa xuân  lấy từ điển tích Châu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích  Bích, nên Đài Đồng Tước không bị cháy, nhưng chính vì đó mà đã khóa chặt  tuổi xuân hai chị em tên Đại Kiều và Tiểu Kiều, một người vợ Tôn Sách  và một người vợ Châu Du.. 
  
 Đông phong bất dữ Chu lang tiện, 
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều . 
  
 Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đã khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều. 
  
 Một  đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều, nhưng nàng đã  không còn ở đó, chỉ còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn  biệt gió đông: 
  
 Trước sau nào thấy bóng người 
         Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông 
  
 Hai  câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường, trở về Đào Hoa  Trang để thăm người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong  lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn còn  đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy dưới nắng xuân. Thôi Hộ  đã viêt hai câu thơ nguyên văn văn : 
  
 Nhân diện bất tri hà xứ khứ , 
            Đào hoa y cựu tiếu đông phong 
 Kết luận . 
  
 Tóm  lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ  thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi  chỉ một mảnh trời , một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một  áng mây hoàng hôn v.v.v . Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và  cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc,  như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là  Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một  “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không  khỏi bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới  mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ  truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc  ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta. 
  
 Hãy  nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “Chúng ta sở dĩ yêu  chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời,  mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung  động tâm hồn ta...” ( Khảo Luận về Kim Vân Kiều).. 
  
 Thật  đúng như vậy, những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc  truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi  vì chúng ta đã từng có những cảm giác này. Truyện Kiều vì thế đã sống  mãi với thời gian và không gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác, lúc nào  cũng được mọi người trân trọng và yêu mến . 
  
(Sưu tầm) 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |