Bài 1: 
 
Chẳng biết tự bao giờ, đất trời có mùa thu và cũng chẳng biết tự bao  giờ, hương sắc mùa thu khiến cho các tao nhân mặc khách ngây ngất để phả  vào mấy vần thơ. Tâm hồn con người luôn là một cây đàn muôn điệu với  các "tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng thướt tha” mà hoá công có thể diện  tả được để gửi vào thời tiết. Đông mang đến sự héo hắt, bi luỵ, u sầu;  xuân mang đến mầm sống cùng sự chuyển mình thần kỳ, hạ mang sức trẻ, sự  sôi nổi, nhiệt thành; còn thu, thu e ấp gam màu trầm lặng với sự thơ  mộng, lãng mạn. Nhưng cũng có lúc tâm hồn ta buồn vui lẫn lộn như một sự  giao mùa, chuyển tiết Hè - Thu. Ít ai nhận ra cái chuyển tiếp đó. Và  Hữu Thỉnh từng thấy được điều ấy một cách tình cờ để phả vào khúc " Sang  thu”. 
  
   Xinh tươi bao giờ cũng thuộc về những buổi bình minh cây xanh nắng  gội còn hoàng hôn mang đến cho ta nét trầm lặng, lãng mạn của một mùa  thu vàng. 
  
   Đến rồi lại đi, tự nhiên là thế, mùa hạ đang trôi qua mau chóng nhưng  dấu gót của nó vẫn còn phảng phất đâu đây trong hương sắc trời thu để  ta phải lưu luyến bâng khuâng như một hoài niệm. 
  
 Bỗng nhận ra hương ổi 
          Phả vào trong gió se 
             Sương chùng chình qua ngõ. 
        Hình như thu đã về. 
  
Mở ra bài thơ thường bằng một vài lời trần thuật, tự sự để dẫn ta vào  mạch cảm xúc. Song ở đây, Hữu Thỉnh đã gợi ra cái ngỡ ngàng trong tâm  trạng mình một cách đột ngột. 
  
Bỗng nhận ra hương ổi. 
  
" Bỗng" là một trợ từ nay lại được dùng làm từ mở ra một bài thơ thật  bất thường. Nó gợi ra một sự ngạc nhiên đến tột độ. Dường như, thu đến  với nhà thơ quá đột ngột, tình cờ trong vô thức. Song chính nhờ cái tình  cờ của chữ "bỗng" ấy, Hữu Thỉnh mới nhìn vạn vật mang một vẻ đẹp đầy  nên thơ, mơ mộng với những quan sát tinh tế đến từng chi tiết, góc độ. 
  
   Trời đã bước sang cuối hạ, hương ổi vẫn còn. Cái hương thơm nồng nàn  của loại trái cây đương chín rộ đủ khiến ta ngây ngất. Chắc hương thơm  ấy phải đậm lắm mới khiến cho thi nhân đang triền miên suy nghĩ phải  lặng người mà tận hưởng mùi thơm ngào ngạt ấy. Rồi một làn gió heo may  se sắt của mùa thu khe khẽ thoáng qua đời ta. Lả lướt, nhẹ dịu, mơn chớn  khắp da thịt đó là cái sung sướng của những làn thu gửi đến cho ta: 
  
 Phả vào trong gió se 
  
   Một chữ “phả" kia thôi cũng đủ cho mùi thơm của ổi trở nên sánh lại,  đậm sắc hơn. Hương sắc của hoa lá cỏ cây quện vào với gió rồi lan toả  khắp không gian rợn ngợp thì còn gì thơm bằng. Mùi ổi như được gió thu  tinh lọc để trở nên thanh khiết, cô quánh lại. Riêng hai câu thơ mở đầu  đã mang lại cho người đọc cảm giác bâng khuâng xao xuyến trước sự giao  thoa vô cùng tự nhiên mà quyến rũ của hè và thu. 
  
 Sương chùng chình qua ngõ 
  
   Hoà vào âm hưởng của sự chuyển tiết đó là những làn sương thu. Làn  sương ấy mỏng tang giăng mắc khắp mọi nơi. Có lẽ, ta chẳng thể tìm thấy  một manh mối nào của mặt đất không được sương bao phủ. Sương giăng trên  vạn vật hay chính là giăng trong lòng người bao mối tơ vò. Một nỗi buồn  vu vơ vì hạ đã qua để lại cho con người ta bao nỗi luyến tiếc. Hay đó  cũng là tiếng reo vui chào khí thu đã về. Nhưng dù sao, hình ảnh làn  sương được thi nhân miêu tả thật đẹp. Sương khói mùa thu buồn là vậy:  bảng lảng, lờ đờ và nhè nhẹ đi qua tất cả. Với biện pháp nhân hoá, Hữu  Thỉnh đã giúp cho sương có đôi chân cùng những bước đi nhẹ nhàng, chậm  rãi khoan thai. Dường như, ngay cả tạo hóa cũng muốn sương đi chậm lại  như  một sự níu kéo những bước chân đều đều của khói thu tràn qua cổng  ngõ thời tiết. "Chùng chình" một sự nhấn nhá đầy chủ ý, nó gợi ra thấp  thoáng đâu đây bóng dáng một thiếu nữ thư ớt tha, yểu điệu qua biên giới  mong manh của thời tiết. Danh từ "sương" đã được nhắc nhiều trong thơ  ca từ trước đến nay và có ở khắp các mùa trong năm. Với "thi tiên " Lý  Bạch, sương mang nặng sự héo hắt giá buốt của mùa đông ẩn vào trong khúc  " vọng nguyệt hoài hương": 
  
 Nghi thị địa thượng sương   
                                 (Tĩnh Dạ Tứ) 
  
   Còn với Nguyễn Trãi, sương mờ ảo bất định với vẻ đẹp bí ẩn, " Cỏ xuân  như khói”.  Nhưng sương thu của Hữu Thỉnh thì thật giản dị, tiêu sơ  nhưng lại gói gọn được cái bao điều thi vị. 
  
   Tất cả, tất cả mọi sự vật được gợi ra, bắt thi sĩ phải căng hết các  giác quan và linh động tâm hồn nhạy cảm để phả vẻ đẹp đó vào vần thơ. Để  rồi, chúng khiến cho ngay cả chúng ta có cái gì như  ngạc nhiên lạ lẫm  ngỡ ngàng từa tựa một điều phán đoán. 
  
 Hình như  thu đã về 
  
   Thu đã về thật rồi sao, lại còn phải ngẩn ngơ? Phải chăng bấy lâu nay  ta đã thờ ơ với nó để đến giờ ta cảm thấy lạc lõng khó có thể khẳng  định được thu đã sang hay chưa. Mở đầu bằng một sự tình cờ “bỗng" và  khép lại khổ thơ bằng cái "hình như”, Hữu Thỉnh gửi vào lòng người đọc  sự thoáng chốc, bất giác về tiết lập thu cũng như  cảm nhận, mơ hồ mong  manh trong tâm thế về sự trở về của mùa thu. 
  
Nếu như, thu trong khổ thơ đầu là không gian hẹp, thấp và gần cùng những  cảm giác trong vô thức thì ở khổ thơ kế tiếp lại là một vẻ đẹp khác. Nó  được mở rộng hơn, xa hơn và cao hơn. Có thể nói khổ thơ này mang tính  logic, hợp với quy luật của dòng lâm trạng của Hữu Thỉnh trong bài thơ.  Từ một phản xạ tự nhiên, nhà thơ đã định thần trở lại để ngắm nhìn thu  sang: 
  
Sông được lúc dềnh dàng 
         Chim bắt đầu vội vã 
         Có đám mây mùa hạ 
         Vắt nửa mình sang thu. 
  
Một sự cụ thể hóa đang diễn ra. Từ cái ngỡ ngàng, si mê, ngây ngất , tác  giả dừng chân đứng lại, phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn một cách lặng  lẽ phong cảnh. 
  
 Sông được lúc dềnh dàng 
         Chim bắt đầu vội vã 
  
Từ những tín hiệu của thu về, tất cả bỗng biến chuyển thành đất trời mùa  thu/ Cái " hình như " ở câu thơ kết khổ một đã đánh dấu cột mốc cho thu  về bằng nhiều hình ảnh quen thuộc. Dòng sông trải dài mênh mang và uốn  lượn trên mặt đất. Con nước trôi êm ả không chút băn khoăn. Điều này  thật khác với sông trong mùa hạ. Nước lũ dâng cao như muốn dồn tất cả  vào bể nước. Vậy mà giờ đãy, con sông trở nên thong thả, yên ả với trạng  thái nghỉ ngơi. Nó thật giống với quy luật của cuộc sống, khi hạ - sự  cống hiến, sôi nổi nhiệt tình đi qua thì thu - trạng thái nghỉ ngơi sẽ  đến. Hai chữ "được lúc" đã khiến cho sông trở nên có hồn: bắt nhịp được  với cái lạch nguồn chuyển tiếp của đất trời, lặng lẽ, dềnh dàng....tất  cả mang đến cho ta cái yên bình trong sự sống. 
   Nhưng chính điều đó đã dẫn đến một hình ảnh khác :"chim bắt đầu vội  vã". Gió heo may se sắt đã tràn về sông hồn nhiên hơn cũng là lúc mùa  rét đã tới. Những đàn chim di cư  sẽ phải bay về phương Nam ấm áp để  tránh rét. Cả chiều thu đã sang tới bến sông, vậy thì còn đợi gì nữa mà  đàn chim chẳng vội vã đi nơi khác. Với biện pháp tương phản đối lập, nhà  thơ khắc họa thật đậm nét sự biến chuyển của thời tiết. Song ở đây, ta  cũng có thể thấy được cảm nhận tinh thế của nhà thơ qua mấy vần thơ. Đàn  chim mới chỉ là “bắt đầu” chứ không phải là đang."Đang" thì thường quá.  Hữu Thỉnh thật tài tình khi tìm thấy sự bắt đầu hiếm hoi khó có thể gặp  được ấy. Và cũng bởi tất cả mới chỉ ở khởi điểm nên nó chưa thấm mệt mà  hãy còn duyên dáng, nhẹ nhàng. 
  
Có đám mây mùa hạ 
  
Mở rộng đến tuyệt đối, con mắt thì sĩ như ngước lên nhìn đám mây trời.  Đám mây bảng lảng giữa từng không của mùa hạ. Hai câu thơ là một ẩn dụ  đẹp, ẩn dụ nhân hoá. Trước hết, tác giả nhân hoá mây trời cũng giống như  người chỉ qua nhột từ “vắt". Trong thơ ca, có rất nhiều nhà thơ chỉ  bằng một động từ đã làm nên một phép ẩn dụ giàu tính ước lệ, tượng  trưng. ở đây cũng vậy, có lẽ, sắc trắng của mây mùa hạ đã quyện với gam  màu vàng dìu dịu của hương thu. Phải chăng, cái ranh giới giữa mùa hạ và  mùa thu mong manh lắm chỉ trong gang tấc, cái trôi lững thững của mây  hạ đã dạt nửa mình sang thu. Nhưng thực chất, điều này nhằm nói tới sự  giao thoa giữa hai mùa cũng chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc. 
  
Từ những đam mê say sưa trước sự chuyển mình của đất trời sang thu, thi  nhân khép lại lòng mình để ngắm nhìn những sự vật xung quanh với những  đổi thay sâu kín. 
  
 Vẫn còn bao nhiêu nắng 
          Đã vơi dần cơn mưa 
         Sấm cũng bớt bất ngờ 
         Trên hàng cây đứng tuổi. 
  
Thật tài tình, từ những sắc mùa của vạn vật, Hữu Thỉnh đã thu mình lại và ru hồn trong những trầm ngâm, suy nghĩ. 
  
Vẫn còn bao nhiêu nắng . . 
  
Nắng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn. Nó đã vơi đi chứ không quá gay  gắt chói chang như  nắng hạ. Có lẽ nắng thu đã gởi lại cho hạ cái oi  nồng mà e ấp trong mình sự nên thơ, lãng mạn cùng ánh vàng ngọt ngào như  rót mật vào lòng người. Đó không phải là thứ ánh sáng leo lắt của "Mỗi  lần nắng mới hắt bên sông/xao xác gà trưa gáy não nùng" (Nắng mới – Lưu  Trọng Lư) và đó cũng không phải là: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"  (Hàn Mặc Tử). Nắng ở đây là nắng thơ mang nét đẹp của tâm hồn làm cho  thu thêm phần ý nhị. 
  
    Cùng với nắng là gió mưa, bão bùng. Mưa vơi cạn dần đi. Giọt mưa  không quá nặng hạt để gieo mình xuống mặt đất gây lụt lội. Còn mư a  trong thu ít hơn, hiếm thấy và chất chứa trong ta bao bâng khuâng, xao  xuyến của một mùa lá rụng. Sấm cũng không thét gào dữ dội trên bầu trời,  ánh chớp cơn mưa rạch ngang nền trời trong hạ luôn là một điều đáng sợ.  Tưởng rằng, nó sẽ kéo dài dai dẳng nhưng không ngờ khi bước vào thu,  tất cả như  tắt lịm đi lúc nào không hay. Và ta khó có thể gặp được  những: 
  
Tháng bảy mưa gãy cành chám 
          Tháng tám nắng rám trái bưởi. 
  
Một điều đặc biệt mà ta có thể nhận ra ở đâu đó là tác giả bài thơ đã sử  dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê tăng tiến. Trước hết, mọi  vật này  được liệt kê một cách đầy đủ: nắng, mưa, sấm, chớp. Cùng với việc đó,  nhà thơ đã sử dụng biện pháp nói tránh kín đáo vẫn còn" rồi lộ dần ra  "vơi dần" để kế đến là cung bậc cao nhất của sự thiếu hụt "bớt bất ngờ". 
  
 Vẫn còn bao nhiêu nắng 
           Đã vơi dần cơn mưa 
           Sấm cũng bớt bất ngờ. 
  
   Nhịp thơ nhịp nhàng khiến cho ta tưởng các câu mang ý nghĩa tương  đương nhau nhưng không phải. Rõ ràng sự tăng cấp được sử dụng thật khéo  léo trong cả ba câu thơ. Cuối cùng, chúng trở thành đòn bẩy để tôn lên  vẻ trầm mặc im lìm trên những hàng cây đứng tuổi. 
  
 Trên hàng cây đứng tuổi 
  
Lấy động tả tĩnh chính là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành  công trong bài thơ. Việc này khiến cho người đọc hình dung được rằng sự  thét gào dữ dội hay chính mùa hạ đang mát dần và thu đậm nét hơn trước  mắt bao người. 
  
Thơ là gợi là nhân một vẻ đẹp mà gợi nên bao mối tơ vương trong lòng  người. Từ Thu của thiên nhiên, thu của đất trời mà ở đây ta cũng có thể  hiểu là thu của đất nước Việt Nam. Có nơi nào mang sắc thu vàng mộng mơ,  lãng mạn như  Việt Nam. Hữu Thỉnh không nói thu cụ thể ở nơi nào nhưng  ông đã ngầm đem đến cho ta cái ngọt ngào của thu Việt Nam, thu Bắc Hà,  thu Hà Nội. Có thể nói, toàn bài thơ nhìn tổng thể là một bức tranh giao  mùa tuyệt tác, quyến rũ hồn người...Song, "sang thu ' còn được gợi vào  tình yêu mùa thu, yêu cảnh vật, quê hương đất nước. 
  
Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông 
        Đến chút tột cùng là dòng máu chảy. 
  
   Đất nước đã hòa bình vậy thì không cần phải hy sinh chiến đấu. Mà  tình yêu Tổ quốc chính là lòng yêu những bình dị, thân thương nhất: Một  hương ổi,  một làn sương, một dòng sông...Tất cả, tất cả làm nên một mùa  thu ngọt dịu, đậm đà tình đất nước. Dường như, vần thơ đều thấm đẹp vẻ  đẹp hiền hoà, hồn hậu của thu đất nước. Đôi vần thơ thu như luyến giao  với lòng người một cách tế nhị, tinh vi mà sâu kín lúc nào không hay. Đó  không phải là mùa thu Bắc Việt đẹp quá, lòng người yêu quê hương lắm  hay sao? Sự trùng phùng bất giác làm ta ngẩn ngơ pha một chút mừng rỡ vì  được hưởng thụ khoảng khắc sang thu tuyệt diệu. 
  
   Ngẫm lại cho kỹ, hình như  bài thơ còn có một ẩn ý khác. Thu thiên  nhiên, thu đất nước và cũng là thu của lòng người. Đơn cử hai câu kết  bài thơ : 
  
Sấm cũng bớt bất ngờ 
         Trên hàng cây đứng tuổi. 
  
Không đơn thuần tả cảnh, đôi câu thơ kết lại bao suy ngẫm sâu sắc. Sấm  chớp hay chính là tác động của ngoại cảnh, những vạng động, biến cố bất  thường trong cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ độc đáo làm cho ta cũng khó hiểu.  Nhưng có lời thơ của câu thơ sau nên người đọc mới rút ra được nhiều  điều thú vị. Hàng cây đứng tuổi giúp người đọc liên tưởng đến một con  người. Hàng cây ấy đã được nhân cách hoá để mang dáng dấp một con người  thực thụ. khi đã đi gần hết cuộc đời, ta sẽ lui vào một góc khuất của  cuộc sống để suy nghĩ về những trải nghiệm đã qua. Đồng thời, người cũng  trở nên điềm tĩnh trước những biến cố lớn lao ấy. Suy rộng ra, dáng vẻ  những trải nghiệm đã qua không hề nao núng, sâu sắc hơn cùng t ư thế ung  dung, điềm nhiên chỉ có ở những ngư ời đã từng đi khắp nẻo đường đời.  Còn hàng cây đứng tuổi đang lặng người, "Chết đứng" trong suy nghĩ về  tình người, tình đời cùng tư  thế lịch lãm. 
  
   Có người nói, suy nghĩ của nhà thơ chỉ dừng lại ở hai câu thơ cuối.  Vậy thì, Hữu Thỉnh cũng chỉ là con người tầm thường hời hợt với cuộc  sống. Cái mà ta đánh giá cao chính là nội dung toàn bài thơ "Sang thu” -  Sự chuyển giao của đất trời hay là sang thu của lòng người. Một khoảnh  khắc sang ngắn ngủi ấy khiến cho bao người những khách thể trở nên chín  chắn già dặn hơn. 
  
 Thu là thơ của đất trời 
         Thơ là thu của lòng người. 
  
Xin hãy chú ý vào cách mở bài thơ - "Bỗng". Đó là một từ chỉ sự ngạc  nhiên cao độ. Nó muốn nói tới sự hiếm hoi của hương thu nơi đô thị. Đã  lâu lắm rồi trong Hà Nội không thấy hương cốm sữa, hương ổi Quảng Bá  cũng sắc đỏ cây gạo nơi góc phố thân quen. Bởi cuộc sống tất bật, nhộn  nhịp của con người Hà Thành đã hoà loãng, phai nhạt đi những vẻ đẹp đích  thực của thiên nhiên. Điều cuối cùng muốn nói, chúng ta hãy để tâm đến  những vẻ thánh thiện trong cuộc sống và đừng bao giờ để nó phải mất đi.  Xin cảm ơn, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra khoảng khắc sang thu kỳ diệu đó và  phả vào thơ. Và người đọc chúng ta cũng phải cảm phục Hữu Thỉnh đã đưa  đến cho ta những nét chấm phá tinh tế về cuộc sống. Chắc thi nhân cũng  phải có bản lĩnh kiên cường lắm mới khơi dậy được trong lòng bao con  người một mùa thu đẹp, mộng mơ mà ta đã quên. 
  
   Gấp lại những vần thơ thu của Hữu Thỉnh, người đọc như  thấy vương  vấn đâu đây trong tâm hồn, từa tựa một sự lắng đọng cùng chút vảng vất,  giao hoà vào đôi câu thơ trác tuyệt của Xuân Diệu.  
  
Đây mùa thu tới, mùa thu tới  
           Với áo mơ phai dệt lá vàng. 
                     (Đây mùa thu tới) 
 
Bài 2: 
Mùa thu quả nhiên là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con người cùng Tạo  vật thảy đều nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm mà sự nhạy cảm của hồn  tạo vật luôn thách thức với sự nhạy cảm của hồn người vẫn là thời khắc  giao mùa - chớm thu. Các kênh cảm giác và cả tâm cảm nữa của mỗi hồn thơ  dường như đều được huy động tối đa để nắm bắt những làn sóng, những tín  hiệu mơ hồ nhất từ những giao chuyển âm thầm trong vạn vật. 
Chả thế mà, bao đời nay luôn có sự đua ganh giữa hồn thơ với hồn tạo  vật. Chỉ cần điểm sơ qua những tín hiệu từng được hồn thơ từ cổ chí kim  nắm bắt trong những thi ảnh không thôi, cũng khó đủ giấy mực rồi. Gọn  nhẹ hơn, chỉ điểm qua những thi tứ nổi bật dành cho nhịp chuyển mùa  thôi, chắc cũng  không xuể. Cho nên, tôi sẽ không nấn ná làm cái việc  rút tỉa những thi ảnh và thi tứ tiêu biểu về thời điểm nhạy cảm ấy của  thơ ca các thời, nghĩa là không tái hiện lại một truyền thống, một tiền  đề nữa. Mà cùng Hữu Thỉnh, bước ngay…  Sang thu  
 
Bỗng nhận ra hương ổi  
Phả vào trong gió se 
Sương chùng chình qua ngõ 
Hình như thu đã về 
 
Sông được lúc dềnh dàng  
Chim bắt đầu vội vã 
Có đám mây mùa hạ 
Vắt nửa mình sang thu 
 
Vẫn còn bao nhiêu nắng  
Đã vơi dần cơn mưa 
Sấm cũng bớt bất ngờ 
Trên hàng cây đứng tuổi 
 
Thu, 1977   
 
Tôi mừng cho Hữu Thỉnh và bài thơ, nó vừa giành được một chỗ xứng đáng  trong chương trình Văn và Tiếng Việt của nhà trường. Kể từ nay, hương ổi  của thi phẩm sẽ phả vào tâm hồn của nhiều thế hệ học trò, sẽ được những  tâm hồn ấy mang tới bao nẻo thu, đến cả những miền chưa từng có mùa thu  nữa.  
 
1. Từ cấu trúc …  
 
Trước tiên, thử đi vào cấu trúc của thi phẩm.  
Hình thái tổ chức của Sang thu đâu dễ nhận diện. Về bố cục, ai chẳng  thấy chính tác giả đã tự chia bài thơ thành ba khổ khúc chiết. Nhưng về ý  tứ ? Xem chừng ý khổ này cứ “dính” vào khổ kia, chả chịu rành mạch gì  cả. Thì quanh đi quẩn lại vẫn là thế : hương ổi, gió se, sương chùng  chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt  bất ngờ, hàng cây đứng tuổi… chẳng dáng nét thu về, thì hình sắc thu  sang, đấy thay đổi tinh vi, đây đổi thay tinh tế. Ý đâu có khác gì nhau.  Đến nỗi, ngay cả “Sách giáo viên” hướng dẫn người dạy khai thác và soạn  giảng chừng như cũng “ bí” trong việc phân định . Hay việc chia thành  ba khổ thế chỉ hoàn toàn do cảm tính lúc viết của thi sĩ, còn ý thơ thì  vốn thiếu rành mạch, vô tổ chức ? Không hẳn. 
Đọc kĩ hơn thì thấy rằng: cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa, nhưng  mỗi khổ thơ vẫn nghiêng về một ý. Về cảnh vật, khổ một nghiêng về những  tín hiệu mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa thu, từ góc nhìn vườn ngõ :  Bỗng nhận ra hương ổi /Phả vào trong gió se /Sương chùng chình qua ngõ  /Hình như thu đã về. Khổ hai lại nghiêng về những cảnh sắc trời mây sông  nước đang chuyển mình sang thu, với tầm nhìn rộng xa vào bầu trời mặt  đất : Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã/Có đám mây mùa hạ/  Vắt nửa mình sang thu. Trong khi đó, khổ ba lại nghiêng về những biến  đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật : Vẫn còn bao nhiêu  nắng/Đã vơi dần cơn mưa/Sấm cũng bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi.  Như vậy, ba khổ thơ đã được liên kết thành một chỉnh thể nhuần nhị nhờ  vào một trật tự khá tự nhiên : từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hẹp  đến rộng, từ ngoài vào trong, với các lớp cảnh càng ngày càng đi vào  chiều sâu… Một trật tự hợp lí tự nhiên bao giờ cũng là điều sinh tử để  một sản phẩm nghệ thuật hiện ra như một sinh thể ! 
Nhưng, cả người khờ khạo nhất cũng phải thấy rằng : thơ thiên nhiên  không đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao giờ cũng là tình, dù đậm  hay nhạt, dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh trong tình. Cho nên,  đồng hành với mạch cảnh sắc trên đây, là tâm tư của thi sĩ. Cụ thể là  mạch cảm nghĩ trước mùa thu. Sự đan xen các mạch này là một khía cạnh  phức tạp không thể thiếu của cấu trúc. Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ  một (… Hình như thu đã về), là đến niềm say sưa ở khổ hai (…Có đám mây  mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu), và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm(…  Sấm cũng bớt bất ngờ / trên hàng cây đứng tuổi). Không chỉ có thế. Tương  ứng với những cung bậc của mạch cảm, là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ  đầu : bất giác, khổ hai : tri giác, khổ ba : suy ngẫm. Mạch cảm và mạch  nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hoá sang nhau trong cùng một dòng  tâm tư . Chúng đan bện với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi  phức tạp. Rõ ràng, từ khổ một đến khổ ba, thi phẩm là sự đồng hành và  hoá thân vào nhau của ba mạch nội dung vừa rõ nét vừa sống động. Có thể  nôm na hoá qua sơ đồ sau : 
   Thế đấy, cấu trúc của thi phẩm này, bề ngoài, có vẻ “dính”, nhưng bề  sâu, đâu phải là thiếu rành mạch. Trái lại là đằng khác ấy chứ ! Rõ  ràng, qua phân tích trên đây cũng đủ thấy rằng : một tiếng thơ dù bình  dị hồn nhiên thế nào đi nữa, vẫn là một kiến trúc ngôn từ với một cấu  trúc thật tinh vi. 
Cảm nhận tạo vật lúc sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ biến suy  một chiều của cảnh. Vì thế, thần thái của cảnh thu thường hiện lên qua  vẻ tiêu sơ. Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá tinh tế của một thi sĩ  đương thời : Mướp tàn sen cũng đi tu / Lá tre đã thả một mùa heo may /  Con sông không ốm mà gầy / Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn. Cảm nhận  của Hữu Thỉnh khác, không đơn tuyến. Tôi cho rằng, một trong những nét  đặc sắc của bài Sang thu là có hai hệ thống tín hiệu báo mùa có vẻ phản  trái nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của mùa thu. Tạm đặt tên  là nhịp mạnh và nhịp nhẹ. Nhịp mạnh bao gồm những động thái, sắc thái  dương tính (mạnh, nhanh, nhiều…) : hương ổi phả - chim vội vã - vẫn còn  bao nhiêu nắng… Nhịp nhẹ thì  
nghiêng về âm tính (êm, chậm, ít…) : sương chùng chình, sông dềnh dàng,  mưa vơi dần… Lúc bất giác nhận ra hương ổi “phả” vào trong gió se, thì  cũng là lúc bắt gặp sương “chùng chình” qua ngõ. Chính lúc sông “dềnh  dàng” là lúc chim “vội vã”. Khi nắng “còn” cũng là khi mưa “vơi”. Đừng  nghĩ thi sĩ cố ý đặt bày hai mạch tương phản nhằm chơi trò lạ hoá. Nó  chính là hiện tượng trái chiều mà cùng hướng ta vẫn thường thấy trong  mỗi cuộc đổi thay. Chẳng phải thế sao ? Chẳng phải bao mạch sống đang  cần mẫn chuyển lưu trong lòng tạo vật làm nên cõi sống trường cửu này  vốn vẫn tương sinh tương khắc như vậy sao ? Và chẳng phải những vận động  trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống thế quân bình  ngay trong lòng mỗi nhịp biến thiên hay sao ? Cho nên, thật thú vị mà  cũng thật hiển nhiên là hai nhịp mạnh - nhẹ với hệ thống hưng - suy,  tiêu - trưởng kia lại đan dệt trong nhau khá nhuần nhuyễn tạo nên cái  bản giao hưởng gợi cảm của đất trời thu. Có thể xem đó là nét phức điệu  trong cảm nhận ngoại giới của hồn thơ Hữu Thỉnh. Toàn cảnh thu trong  bước chuyển mùa, nhờ lối cảm ấy, đã hiện ra không chỉ có biến thiên, mà  đây đó còn cả thế quân bình. Luôn thấy được thế quân bình ngay giữa  những biến thiên thì ít bất ngờ chao đảo. Trong thiên nhiên đã vậy.  Trong cuộc đời cũng thế. Và, tôi ngờ rằng cảm quan quân bình về đời sống  đã ngấm ngầm xui thi sĩ tìm đến cái kết điềm tĩnh trước ba động, giấu  cương sau nhu này :  
Sấm cũng bớt bất ngờ 
Trên hàng cây đứng tuổi ? 
 
Nói đến câu kết kia, không thể không thêm vài lời về cách lập tứ dẫn tới  kết. Nó rõ nhất ở khổ ba : Vẫn còn bao nhiêu nắng /Đã vơi dần cơn mưa  /Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Để ý một chút, sẽ thấy  rằng đến đây, tâm thế thi sĩ không còn ngỡ ngàng bất giác như khổ một,  say sưa tri giác như khổ hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra chiều trầm ngâm  với suy ngẫm rồi. Lớp từ mang sắc thái đong đếm ở đây mách với ta điều  đó. Hệ thống các từ còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-thêm) bảo rằng thi sĩ  đang suy xét, đúc kết, chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm điều gì ? Về một lẽ  đời trong hai chiều biến đổi trái nhau. Ba câu trên : nắng “vẫn còn”,  tức là đã giảm ; mưa “vơi dần” rõ là giảm ; sấm “bớt bất ngờ” càng giảm.  Cả ba nghiêng về chiều giảm. Nhưng, khi câu ba nối vào câu kết, thì  chiều giảm đột ngột thành chiều tăng, một chiều tăng kín đáo : Sấm cũng  bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi. Ấy là sự từng trải tăng lên, là  cây đã trưởng thành. Nhờ lối viết nén, mấy chữ “bớt bất ngờ” như một nút  buộc, câu thơ bỗng có “cú pháp dính”, lời thơ súc tích hẳn nhờ các làn  nghĩa giao nhập ràng néo nhau : sấm bớt gây bất ngờ (sấm đã e cây), hay  cây bớt bị bất ngờ (cây thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai, nhưng xem chừng,  cái vế sau mới là chốt hạ.  Nhờ ngữ pháp ấy mà cái ý cương kia liền được  giấu kín nhẹm, thậm chí được nhu hoá. Có thể nói, đây là lối kết theo  kiểu “đảo phách”. Một cú đảo phách ngoạn mục. Bởi đảo mà cứ như không.  
 
                                                  *  
Sang thu là bài thơ tinh tế. Điều này khỏi bàn thêm. Chẳng thế mà các  chi tiết gợi cảm của thi phẩm đã cuốn hút nhiều người yêu thơ. Nào những  hương ổi phả vào trong gió se, nào sương chùng chình qua ngõ, rồi thì  sông được lúc dềnh dàng… xem ra, thi ảnh nào cũng tài hoa. Mà ấn tượng  nhất hẳn phải là cảnh tượng Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu. Làm  xác định cái không xác định, khiến cái vô hình thành hữu hình, làm định  dạng cái vốn mơ hồ, là lối viết đâu có gì lạ về thi pháp. Thế mà thi  ảnh lại mới, hình sắc lại gợi. Đám mây thực thế mà ảo thế ! Cái cách  “vắt nửa mình” kia sao mà thi vị ! Có thật chăng một đám mây vốn của mùa  hè đang mải mê lấn sân sang mùa thu ? Có mà không có, thật mà không  thật. Cứ y như giữa mùa thu và mùa hè vẫn có một lằn ranh làm bằng sợi  dây vô hình giăng ra giữa thinh không, khiến đám mây yêu kiều và đỏng  đảnh kia có thể vắt nửa mình qua đó mà khoe sắc phô duyên vậy ! 
 
Mà đâu chỉ trong quan sát, ở thi phẩm này, Hữu Thỉnh còn tỏ ra tinh hơn  nữa trong sự đồng điệu với nhịp chuyển mùa. Những hiện tượng riêng lẻ  thì gồm cả hai hệ thống tín hiệu trái chiều, có chậm có nhanh. Nhưng cái  nhịp luân chuyển chung chi phối vạn vật thì bao giờ cũng khẩn trương và  mau lẹ. Nhịp luân chuyển ấy dường như đã nhập vào mấy chữ tưởng rất  không đâu mà lại thần tình này: Sông được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội  vã ; Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa”. Mấy chữ ấy đi với nhau  thành cặp, hô ứng và tiếp ứng nhau làm hiển thị cái nhịp luân chuyển  trong tạo vật vốn mải mê mà vô hình.  
 
Người đọc cũng dễ say với những nét tài hoa trong việc sử dụng nhuần  nhuyễn yếu tố cổ điển của thi sĩ. Đọc Hữu Thỉnh, có một chất rất dễ nhận  : dân gian. Còn có một chất khác, luôn cặp kè, mà xem ra lại khó thấy :  Đường thi. Sao lại cặp kè ? Thì một trong những chiêu rất Hữu Thỉnh  chẳng phải là chế tác thi liệu dân gian bằng thi pháp Đường ư ? Cố  nhiên, anh không chỉ có chiêu này. Ở Sang Thu, cái súc tích Đường thi  kết hợp với chất hồn nhiên thơ trẻ cứ loáng thoáng đâu đó trong cách  nhìn tạo vật, trong cách kiệm lời, mà hiển lộ nhất là ở phép đối ngẫu  được dùng khá nhuyễn : Sông được lúc dềnh dàng-Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn  còn bao nhiêu nắng-Đã vơi dần cơn mưa. Có lẽ khi đọc các cặp ấy, tâm  trí ta bị trôi theo lời thơ bình đạm, ít ai để ý đến nghệ thuật tổ chức,  chỉ lúc chợt ngoái lại, thì mới vỡ lẽ: ồ, ra là phép đối ! Thế là  nhuyễn, là tinh chứ sao !  
 
Tuy nhiên, đó vẫn là những tinh tế tiểu tiết và dễ viết.  
 
Đôi khi quá chú mục vào cái tinh tế trong tiểu tiết có thể quên sự tinh  vi trong đại cục. Tôi muốn nói đến điều khác : ý tưởng bao trùm. Nó mới  là nét tinh vi thuộc về đại cục. Ý tưởng Sang thu được gói kín vào thi  tứ. Một thi tứ đa tầng khiến hình tượng thơ thành đa nghĩa. Nhờ đó, thi  phẩm nhỏ đã mang thi tứ lớn.   
Sang thu đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của ba lớp  nghĩa : trời đất sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu. Lớp  nghĩa thứ nhất dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản thơ. Nó khiến bài thơ  như một bức tranh thiên nhiên. Không. Có lẽ như những thước phim về  cảnh vật thiên nhiên thì phải hơn. Tranh thì tĩnh, phim mới động. Sự mẫn  cảm của tâm hồn thi sĩ đã được dịp phô diễn qua những thi ảnh giàu mỹ  cảm trong việc nắm bắt bao vận động, chuyển động, biến động âm thầm và  sâu kín của thiên nhiên. Nhưng, nếu chỉ thế thôi, Sang thu cũng mới là  thơ tạo vật. Hữu Thỉnh chưa đem đến cái gì mới hơn so với các tiếng thơ  thuộc thi đề thu của những người đi trước. Đồng thời, cũng chưa phổ được  vào đó hơi thở của thời mình, tinh thần của thế hệ mình.  
Hai lớp nghĩa sau mới thật là thứ hương ổi riêng mà Hữu Thỉnh phả vào  trong thi đề này. Tất nhiên, những hàm ý kín đáo kia toát lên trước hết  từ nghĩa bóng đây đó của các thi ảnh. Ai cũng có thể thấy những ẩn ý nào  đó thấp thoáng sau lối viết ẩn dụ trong các thi ảnh rải rác ngay từ   đầu sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã v.v… Nhưng nếu chỉ có  thế thì ý nghĩa của chúng còn lờ mờ, chưa xa gì hơn một lối nói sinh  động về sự vật, chưa đủ tạo hẳn ra một lớp nghĩa khác cho văn bản. Lớp  nghĩa kia chỉ thực sự bật hầm khi hình ảnh cuối cùng đột hiện : Sấm cũng  bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi. Chữ “đứng tuổi” bật sáng, phát  động một lớp nghĩa khác cho bài thơ. Nó đâu chỉ nói cây, mà còn nói  người. Nhân hoá cây là bề nổi, giấu người vào cây là bề sâu. Tự dưng,  chúng ta thấy từ mạch hình ảnh thiên nhiên rải khắp bài thơ bỗng bừng  dậy một lớp nghĩa khác gắn với con người và cuộc đời.  
Có thể thấy rõ hơn nữa, khi nhìn trong tương quan khác. 
 
Cảm thụ nghệ thuật, căn cứ quan trọng nhất là văn bản. Nhưng, chỉ bó hẹp  trong văn bản không thôi, dễ làm nghèo nghệ thuật. Trong thực tế, thông  điệp nghệ thuật của một tác phẩm không chỉ cất lên từ những gì thuộc  nội bộ văn bản, mà còn vang lên cả từ tương quan giữa văn bản với những  thứ bên ngoài vốn thiết thân với nó nữa. Ví như hoàn cảnh sáng tác . Tác  giả cho biết thời điểm viết Sang thu là mùa thu 1977, ở nhiều lần in  cũng ghi rõ như vậy. Điều này ngẫu nhiên chăng ? vô nghĩa chăng ? Không  hẳn. Bấy giờ, cuộc sống vừa qua khỏi thời chiến đầy khốc liệt đang  chuyển sang thời bình êm ả. Nghĩa là, đời sống cũng vừa sang thu. Đây là  lúc trong lòng đời có bao trăn trở xao động. Nhìn bài thơ trong tương  quan với thời điểm ấy, tự dưng chúng ta thấy các hình ảnh đó đây nhấp  nháy lên những nghĩa khác : nghĩa thế sự.  Đặc biệt từ khổ hai trở đi.  Nếu ở khổ đầu, thơ còn nặng về tạo vật, thì từ khổ thứ hai đã bảng lảng  cái bóng đời. Hèn chi, cùng diễn tả nhịp vận động chầm chậm, nhưng Sương  chùng chình qua ngõ thật khác với Sông được lúc dềnh dàng. “Chùng  chình” còn dễ ưa, “dềnh dàng” đã khó ưa. “Dềnh dàng” đâu chỉ nói về nét  riêng của dòng chảy đã chậm hơn khi con sông vào thu. Dường như nó còn  ngầm tỏ thái độ về cái điệu sống của những đối tượng nào đó hồi mùa hạ  hăng hái xông pha là thế, giờ vào thu đã tự cho phép mình được dềnh  dàng, được xả hơi chăng ? Chả phải vô cớ mà thi sĩ đem chữ “được lúc”  gắn với cái thói “dềnh dàng” ấy của sông. Cũng như thế, Chim bắt đầu vội  vã có phải chỉ đơn thuần nói về các loài chim lúc sang thu đang gấp gáp  bay đi lánh rét không thôi ? Xem ra, nó còn muốn nói tới đối tượng sống  tuỳ thời, xu thời nào đó nữa ấy chứ ? Đến khổ thứ ba, cái lớp nghĩa thế  sự bảng lảng này còn tỏ hơn nữa. Tôi ngờ rằng đây là khổ thơ mà anh  chàng thi sĩ cũng vừa trải qua một mùa hè bỏng rát đang kín đáo nói về  thế hệ mình và chính mình ? Vâng, tuy đã sang thu, nhưng lòng vẫn còn  bao nhiêu nắng. Đồng thời, bao tủi sầu yếu đuối, bao cơn mưa thở than  nay cũng đã vơi dần. Bước sang thu, hàng cây trẻ hồi nào giờ đã đứng  tuổi. Sự từng trải đã giúp cây trưởng thành, đủ vững trãi đối đầu với  mọi ba động, mọi cú giáng của cuộc đời : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng  cây đứng tuổi. Không có chữ “đứng tuổi” cứ như lạc hệ thống này, mọi  suy cảm trên sẽ thành võ đoán, lớp nghĩa thời sự vốn khuất mình không  thể phát sáng được. Không có nó, ý ngầm của kẻ viết vừa khó phát lộ vừa  khó gói ghém.  
 
 Một cái kết quá là khôn ngoan.  
 
Thì ra, mùa thu đâu chỉ có chuyện tiêu sơ. Mùa thu còn là chuyện trưởng  thành. Mùa thu đâu chỉ có biến thiên. Mùa thu còn tàng ẩn cả những quân  bình tự tại nữa. Chẳng phải đó là những nét độc đáo mà Hữu Thỉnh đã đem  đến cho một thi đề tưởng đã quá ư quen thuộc hay sao ?  
Từ thơ tạo vật, Sang thu đã lẳng lặng thành thơ cuộc đời !    . 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |