I - TÌM HIỂU CHUNG 
  
1. Tác giả: 
  
Nhà thơ Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê  huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946 ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và  hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp  và đế quốc Mĩ. Chính Hữu hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. 
  
"Bài thơ đầu tiên của Chính Hữu được biết đến là bài Ngày về (1947), thể  hiện ý chí của những người chiến sĩ Hà Nội quyết trở về giành lại quê  hương đang nằm trong tay giặc. Chính Hữu thành công thực sự là bài Đồng  chí (1948). Bài thơ được viết ngay sau chiến dịch Việt Bắc, thể hiện  chân thực hình ảnh người lính cách mạng trong vẻ đẹp bình dị và tình  đồng chí, đồng đội thiêng liêng, thắm thiết của họ. Trong hai cuộc kháng  chiến chống Pháp và chống Mĩ cũng như trong hòa bình, Chính Hữu gần như  chỉ viết về người chiến sĩ và cuộc chiến đấu: tình đồng chí, đồng đội  (Đồng chí, Giá từng thước đất), cảm xúc và suy nghĩ của người lính về  nhân dân, đất nước (Tháng Năm ra trận, Sáng hôm nay, Lá nguỵ trang. Ngọn  đèn đứng gác...), tình cảm tha thiết với gia đình (Gửi mẹ, Thư nhà),  nỗi đau thương và căm giận trước tội ác của kẻ thù thúc giục người chiến  sĩ ra trận (Trang giấy học trò). Thơ Chính Hữu in đậm những hình ảnh  của một đất nước ngày đêm đánh giặc, với khí thế mạnh mẽ và hào hùng của  những cuộc hành quân không ngừng nghỉ. Mọi khung cảnh, âm vang của thời  đại đã được đón nhận và tái hiện với sức vang ngân rất sâu trong tâm  khảm nhà thơ, để trở thành những hình ảnh và ấn tượng đậm nét, giàu sức  gợi cảm và ý nghĩa biểu trưng. 
  
Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ  Chính Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu giàu hình  ảnh, nhiều suy tưởng, ngôn ngữ chọn lọc, cô đọng. Ông thường sử dụng thể  thơ tự do, giàu nhạc điệu, mà chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa  lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm thơ không nhiều nhưng vẫn có  một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, và một số bài thơ  của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến  (Đồng chí, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trò).  Chính Hữu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm  2000" (Nguyễn Văn Long - Từ điển văn học, Sđd). 
  
 2. Tác phẩm: 
  
Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu  xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt  Bắc. Cảm hứng của bài thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến,  khai thác cái đẹp và chất thơ trong sự bình dị của đời thường. 
  
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội gắn bó thắm thiết của những người  nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực  dân Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm  động, đẹp đẽ. 
  
 II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM 
  
Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp không thể không nói đến  Đồng chí (1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội,  đồng chí giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng  trong những tháng ngày kháng chiến gian lao. 
  
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình: 
  
"... Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt  cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại,  để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình  đồng đội. Không có đồng đội, tôi không thể nào hoàn thành được trách  nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng  chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của  mình." 
  
Thật vậy, không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà không lạnh lẽo.  Hơi ấm toả ra từ tình người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau  của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ  cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt  lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp lực. Họ sống trong  tình đồng đội, nhờ đồng đội, vì đồng đội. 
  
Những người đồng đội ấy thường là những người "nông dân mặc áo lính".  Điểm giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi,  đồng cảm với nhau: 
  
  Quê hương anh nước mặn, đồng chua 
 Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. 
 Anh với tôi đôi người xa lạ 
 Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, 
  
"Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó  của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua".  Tôi từ vùng đất cao "cày lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai phương  trời xa lạ trở thành tri kỉ: 
  
  Súng bên súng, đầu sát bên đầu 
 Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ 
  
Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì  chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính cụ  Hồ". Sự nghiệp chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về  không gian nơi sinh sống của mỗi người. ""Súng bên súng" là chung chiến  đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về  không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng" (Trần Đình Sử - Đọc văn  học văn, Sđd). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực  sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ nửa,  chăn sui đắp cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói  về sự gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh  đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình  tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa "anh" và "tôi". 
Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì  đây là lần duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm  thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của  toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý  nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng  lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự  gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người  đồng chí - chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc.  Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con  người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của  "một cây" trong sự giao kết của "rừng cây", nghĩa là từng người không  chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao  quý, lớn lao là vì thế. 
  
ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác  giả đã thể hiện tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ  cùng chung một nỗi nhớ quê hương: 
  
  Ruộng nương anh gửi bạn thân cày 
 Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay 
 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. 
  
Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ  giếng nước, gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi  nhà nhớ người trong lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang  thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói "giếng  nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn cào về giếng  nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong những người  đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người lính hiện  ra cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê  hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê  hương, điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội: 
  
  Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh 
 Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi 
Áo anh rách vai 
 Quần tôi có vài mảnh vá 
 Miệng cười buốt giá 
 Chân không giày 
 Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. 
  
Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu.  Nói về cái gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ  đến cái rét xé thịt da trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu: 
  
  Cuộc đời gió bụi pha xương máu 
 Đợt rét bao lần xé thịt da 
 Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh 
 Đâu còn tươi nữa những ngày hoa! 
 Lòng tôi xao xuyến tình thương xót 
 Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa 
  
Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng: 
  
 Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm. 
  
Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát  mồ hôi của bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu  như Thôi Hữu viết về cái rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp  nhận hi sinh, "Đem thân xơ xác giữ sơn hà", Quang Dũng nói đến sốt rét  để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến sĩ thì Chính Hữu nói về  cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội, đồng chí  trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính. Trong  bất cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau:  "Anh với tôi biết...", "áo anh... - Quần tôi...", "tay nắm lấy bàn tay".  Cái "Miệng cười buốt giá" kia là cái cười trong gian khổ để vượt lên  gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm  thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh lẽo cũng là vì  thế. 
  
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ đang làm nhiệm vụ chiến đấu: 
  
  Đêm nay rừng hoang sương muối 
 Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
 Đầu súng trăng treo. 
  
Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính  trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất  chân thực của bút pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút  pháp lãng mạn. Trên sắc xám lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối,  hiện lên hình ảnh người lính - khẩu súng - vầng trăng. Dưới cái nhìn  của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong một sự kết  hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về  không gian, để thành: "Đầu súng trăng treo.". Sự quan sát là hiện thực,  còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng  cho hành động chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng  trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng. Hình ảnh "đầu súng trăng treo"  mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu, tâm  hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương phản sóng  đôi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng,  trữ tình của dân tộc Việt Nam. 
Những người lính là đồng đội, đồng chí, cả dân tộc là đồng chí. Người  nghệ sĩ cũng trở thành đồng chí, nên Hồng Nguyên và Chính Hữu đồng cảm  với nhau trước những người áo vải: 
  
 Lũ chúng tôi 
 Bọn người tứ xứ 
 Gặp nhau hồi chưa biết chữ 
 Quen nhau từ buổi "một hai" 
 Súng bắn chưa quen, 
 Quân sự mươi bài, 
 Lòng vẫn cười vui kháng chiến 
 Lột sắt đường tàu, 
 Rèn thêm dao kiếm, 
 áo vải chân không, 
 Đi lùng giặc đánh. 
  
Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái  khổ,... những người lính - những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự  nghiệp chung của dân tộc. Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của  những con người sống và chiến đấu cho hạnh phúc, tự do.  
  
(Sưu tầm) 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |