Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa-khí  phách. Ngay từ trước cách mạng tháng Tám, ngòi bút ấy đã biết hướng  thiện, hướng mĩ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời những vẻ đẹp của một  thời vang bóng. Trong nhiều vẻ đẹp của Vang bóng một thời xuất bản năm  1940 mổi lên vẻ đẹp chói loà, rực rỡ vẻ đẹp của Chữ người tử tù. 
 
I/Tìm hiểu chung 
 
1.Tác giả 
 
Nguyễn  Tuân (1910-1987) quê làng Mọc, huyện Từ Liêm, nay thuộc phường Nhân  Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội, là nhà văn có tài năng và tài hoa đặc  biệt của văn học Việt Nam. Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà  nho vào thời buổi Hán học đã lụi tàn, chịu ảnh hưởng từ người cha là một  nhà nho tài hoa bất đắc chí  ông tú Nguyễn An Lan. Nhiều tác phẩm của  Nguyễn Tuân thể hiện sự hoài niệm về những nét đẹp văn hoá cổ truyền đã  mất đi. Trong đó, tiêu biểu nhất là tập truyện Vang bóng một thời. 
 
2.Tác phẩm 
 
Chữ  người tử tù là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật  Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Truyện ngắn này có một tình huống truyện  rất độc đáo. Huấn Cao là một tử tù nhưng lại là người đại diện cho thiên  lương, là một nghệ sĩ ban phát cái đẹp. Viên quản ngục là người đại  diện cho chính quyền nhưng lại là người được nhận cái đẹp từ người tử  tù. Huấn Cao và viên quản ngục là hai hình tượng nghệ thuật đẹp của  Nguyễn Tuân. 
 
* Cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có,  cuộc tương phùng kì ngộ của những liên tài tri kỉ giữa chốn ngục tù xoay  quanh việc xin chữ và cho chữ của tử tù, quản ngục và thầy thơ lại. 
 
 Tình huống độc đáo : cái đẹp được sáng tạo trong tù ngục. 
 
  Người cho chữ là tử tù, người nhận chữ là quản ngục. Cái ác cúi đầu  trước thiên lương, cái thiên lương được tôn vinh nơi cái ác ngự trị. Vẻ  đẹp của tài năng và thiên lương đã tỏa sáng nơi tăm tối nhất. Đó là sự  vững bền và bất khuất của chân lí. 
 
II/Đọc-hiểu văn bản 
 
1.Tình huống truyện đặc sắc 
 
Tình  huống truyện là "cái tình thế xảy ra truyện", là "một khoảnh khắc mà  trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc", là cái "khoảnh khắc chứa đựng cả  một đời người" (Nguyễn Minh Châu). 
 
Tình huống truyện còn được  hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa  nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống, qua đó, nhân vật bộc lộ tâm  trạng, tính cách, hay thân phận của nó góp phần thể hiện sâu sắc tư  tưởng của tác phẩm. 
 
Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn  Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn  Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối lập nhau. Một  người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn nay bị bắt giam, đang  chờ ngày ra pháp trường để chịu tội ; còn một người là quản ngục, kẻ đại  diện cho cái trật tự xã hội đương thời. Nhưng họ đều có tâm hồn nghệ  sĩ. Trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Tạo dựng  tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm  nhơ bẩn, tạo nên một cuộc kì ngộ kì lạ và đáng nhớ. 
 
Tình huống  truyện độc đáo thể hiện ở mối quan hệ éo le, đầy trớ trêu giữa những tâm  hồn tri kỉ. Hai nhân vật được đặt trong một tình thế đối địch : tử tù  và quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn  vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, đồng thời cũng làm sáng tỏ tấm lòng biệt  nhỡn liên tài của viên quản ngục. Từ đó mà chủ đề của tác phẩm cũng  được thể hiện sâu sắc. 
 
2.Hình tượng Huấn Cao 
 
Trong Chữ  người tử tù, ngòi bút Nguyễn Tuân đã tập trung khắc hoạ vẻ đẹp của hình  tượng nhân vật Huấn Cao. Vẻ đẹp của Huấn Cao(HC) là vẻ đẹp lãng mạn, một  vẻ đẹp được lí tưởng hoá, được thể hiện một cách khác thường chừng như  không thể xảy ra được. Huấn Cao hiện lên một cách rực rỡ, chói sáng nhờ  được tô đậm bằng những tương phản gay gắt. 
 
a)Huấn Cao-con người tài hoa xuất chúng 
 
Tài  hoa của HC được giới thiệu ngay từ đầu truyện qua lời của các nhân vật  khác. Nhân vật chính chưa xuất hiện nhưng đã được giới thiệu là một  người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ nhanh mà rất đẹp là  ngươì văn võ đều có tài. Nguyễn Tuân đã chú ý giơí thiệu cái tài hoa của  HC trươc khi giới thiệu nhân vật. 
 
Cái tài hoa của HC nổi tiếng  đến mức viên quản ngục phải đãi ngộ ông cả tháng giời để hy vọng xin  được chữ bất chấp thái độ khinh bạc của kẻ dưới quyền. 
 
Trong cảnh  cho chữ, tài hoa đã thực sự toả sáng đã tạo nên không khí thiêng liêng  khiến cho những người xa cách vị thế xã hội đã chụm đàu vào say xưa  hướng tói cái đẹp. 
 
Miêu tả cái tài hoa tuyệt đích của HC cũng  chính là cách để Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm liên tài của mình. Cái  tài là thứ quý hiếm đáng được tôn thờ và ngưỡng mộ; phải là cái phát lộ  đến tuyệt đích; phải có giá trị thanh lọc tâm hồn con người. 
 
b)Huấn Cao-người có khí phách phi thường 
 
Khí phách khác người của HC cũng được giới thiệu ngay từ đàu truyện, là người có nghĩa khí chọc trời khuấy nước. 
 
Khí  phách ấy còn thể hiện rõ ràng bằng những hành động và cách ứng xử của  Hc trong ngục. Thái độ thản nhiên đến lạnh lùng nhận rượu thịt suốt nửa  tháng trời, khinh bạc trước kẻ tiểu nhân, không vướng bận hạ thấp mình  khi rơi vàp cảnh ngục tù. HC vẫn sống ung dung đường hoàng trong những  ngày chờ ra pháp trường. 
 
Trong cảnh cho chữ con người ngang tàn  ấy cổ đeo gông, chân vướng xiềng vẫn say xưa sáng tạo, không thèm nghĩ  đến cái chết đang kề cổ 
 
c)Huấn Cao-người có thiên lương rực rỡ 
 
Ông  là người có nhân cách cao cả,chữ chính là cái tâm của ông. Đối với HC  chữ là thứ quý nhất trên đời song không vì thế mà đổi chữ lấy vàng bạc,  quyền thế. Chữ chỉ dành cho những người tri kỷ, cho chữ viên quản ngục  tức là HC đã xem quả ngục là người tri kỷ. Chữ không thể treo nơi tối  tăm, bẩn thỉu cũng có nghĩa là cái đẹp không thể tồn tại bên cái xấu xa.  Chữ thể hiện hoài boã của một đời người.Nét chữ vuông vức,tuơi tắn  chính là tinh hoa của đời HC khiến quản ngục phải nghẹn ngào vái lạy. 
 
Qua  hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ những quan niệm  của mình về cái đẹp. Trong truyện, Huấn Cao được xây dựng không chỉ là  người có tài mà còn có tâm, có "thiên lương" (bản tính tốt lành). Huấn  Cao không chỉ có thái độ hiên ngang, bất khuất, coi thường cái chết và  tiền bạc mà còn có tấm lòng yêu quý cái thiện, mềm lòng trước tấm lòng  "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ  thiện căn và sở thích cao quý của ông ta) và thậm chí còn biết sợ cái  việc chút nữa "phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Có thể nói đó là  hai mặt thống nhất của một nhân cách lớn. Như thế, trong quan điểm của  Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi với cái tâm. Cái đẹp và cái thiện không  thể tách rời nhau. Đó là một quan điểm thẩm mĩ tiến bộ của tác giả. 
 
3.Hình tượng viên quản ngục 
 
Dù có thể được coi là nhân vật phụ, song qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, viên quản ngục cũng là một nhân vật độc đáo : 
 
  Là một người làm nghề coi ngục, là công cụ trấn áp của bộ máy thống trị  đương thời, nhưng viên quản ngục lại có thú chơi thanh cao, tao nhã   thú chơi chữ. Ngay từ khi còn trẻ, khi mới "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh  hiền", ông đã có cái sở nguyện "một ngày kia được treo ở nhà riêng mình  một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết". 
 
 Viên quản ngục là  người biết trân trọng giá trị con người. Điều đó thể hiện rõ qua hành  động "biệt đãi" của ông đối với Huấn Cao – một kẻ tử tù đại nghịch. 
  Cái sở nguyện thanh cao muốn có được chữ của Huấn Cao để treo bất chấp  nguy hiểm, cùng thái độ thành kính đón nhận chữ từ tay Huấn Cao cho  thấy, viên quản ngục là một người có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài", là  người biết trân trọng những giá trị văn hoá. 
 
 Diễn biến nội tâm,  hành động và cách ứng xử của viên quản ngục cho thấy đây cũng là một  nhân cách đẹp, một "tấm lòng trong thiên hạ" tri âm, tri kỉ với Huấn  Cao. Đó là "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc  luật đều hỗn loạn xô bồ". 
 
 Có thể nói, viên quản ngục là một  người biết giữ "thiên lương", biết trân trọng giá trị văn hoá và tài  năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có tài nhưng yêu tài, không  sáng tạo được cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng thật lòng cái đẹp. 
 
4.Cảnh cho chữ-"cảnh tượng xưa nay chưa từng có" 
 
Vẻ  đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được bộc lộ một cách chói sáng,  rực rỡ nhất trong cái đêm ông cho chữ viên quản ngục. Cảm hứng mãnh liệt  trước một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" đã khiến Nguyễn Tuân thoả  sức thể hiện khả năng sử dụng vốn ngôn từ phong phú, sắc sảo của ông.  Những lớp ngôn từ vừa trang trọng cổ kính, vừa sống động như có hồn, có  nhịp điệu riêng, giàu sức truyền cảm. Bút pháp dựng người, dựng cảnh của  nhà văn đạt đến mức điêu luyện. Những nét vẽ của nhà văn trong đoạn này  rất giàu sức tạo hình. Thủ pháp tương phản được sử dụng rộng rãi và có  hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực  rỡ hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao. 
 
Có thể nói : cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có", vì : 
 
  Việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một hoạt động sáng tạo nghệ  thuật lại diễn ra trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám  của nhà tù (tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân  gián). Cái đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn ; thiên  lương cao cả lại toả sáng ở chính cái nơi mà bóng tối và cái ác đang ngự  trị. 
 
- Người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô từng nét chữ không  phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông,  chân vướng xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã bị giải vào kinh để  chịu án tử hình. 
 
Trong cảnh này, người tù thì nổi bật lên uy  nghi, lồng lộng, còn quản ngục, thơ lại (những kẻ đại diện cho quyền  thế) thì lại "khúm núm", "run run" bên cạnh người tù đang bị gông xiềng  kia... 
 
 Trật tự, kỉ cương trong nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược :  tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan ; còn ngục  quan thì khúm núm, vái lạy tù nhân. 
 
Thì ra, giữa chốn ngục tù tàn  bạo, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ mà là  người tử tù làm chủ. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng  tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, của cái thiện đối với cái  ác,... Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của con  người bằng một bức tranh nghệ thuật đầy ấn tượng. 
 
5.Bút pháp miêu tả nhân vật 
 
Các  nhân vật của Nguyễn Tuân tuy chỉ được miêu tả trong những khoảnh khắc  nhưng đó là những khoảnh khắc đặc biệt, bởi thế đều rất ấn tượng. 
 
Nhân  vật rất giàu tính cách, rất ngang tàng, rất tài năng nhưng cái tâm cũng  luôn trong sáng. Đó là những biểu tượng về cái đẹp, là những con người  hoàn mĩ. 
 
Trong truyện, đáng chú ý nhất là đoạn miêu tả cảnh vật  và không khí thiêng liêng, cổ kính của cảnh cho chữ. Đoạn văn này thể  hiện tài năng sắc sảo của Nguyễn Tuân không chỉ trong việc sử dụng ngôn  ngữ một cách điêu luyện mà còn ở khả năng sử dụng bút pháp đối lập trong  tạo dựng cảnh. Chính nhờ thủ pháp đối lập (một thủ pháp đặc trưng của  văn học lãng mạn) mà cảnh tượng này hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp trang  trọng, uy nghi, rực rỡ của nó 
 
6. Quan điểm nghệ thuật 
 
Quan  điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện ở chỗ nhà văn luôn tiếp  cận đối tượng từ phương diện văn hoá thẩm mĩ. Ông đặc biệt chú ý đến cái  tài và cái tâm của nhân vật. Trước Cách mạng, nhà văn đặc biệt chú ý đề  cao cái đẹp, nhất là những nét đẹp văn hoá truyền thống. Quan điểm nghệ  thuật của nhà văn được tập trung thể hiện ở nhân vật Huấn Cao. Qua nhân  vật này, nhà văn đề cao vẻ đẹp của tài năng, thiên lương và khí phách.  Huấn Cao là sự kết hợp hoàn mĩ giữa tài và tâm. Còn nhân vật viên quản  ngục là một chứng minh của nhà văn về sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.  Người sáng tạo ra cái đẹp là người tài và người biết thưởng thức cái đẹp  cũng là người có thiên lương. 
 
III/Tổng kết 
 
1.Nội dung 
 
Qua  hai nhân vật HC, viên quản ngục và cảnh cho chữ, tác phẩm tập trung ca  ngợi vẻ đẹp của tài năng và thiên lương. Nguyễn Tuân đã thể hiện quan  điểm tiến bộ và nhân văn: caí taì, cái đẹp phải gắn liền với cái thiện.  Cái đẹp và tài năng không chỉ có sức mạnh toả sáng ở mọi nơi mà còn có  sức mạnh cảm hoá và chiến thắng cái xấu, cái ác. 
 
2.Nghệ thuật 
 
Nghệ  thuật xây dựng nhân vật: Bút pháp lãng mạn dựng nhân vật HC với những  nét tính cách được lý tưởng hoá, đối lập với hoàn cảnh, dứng cao hơn  hoàn cảnh. Nét tính cách nào của nhân vật cũng được tuyệt đối hoá đến độ  phi thường. Nếu HC được khắc hoạ thiên về hành động thì viên quản ngục  được khắc hoạ thiên về chiều sâu tâm lí. Độc thoại nội tâm được sử dụng  để soi rõ từng biến động tinh vi nhất trong tâm hồn nhân vật. Qua đó  nhân vật tự thể hiện mình một cách chân thành nhất. 
 
Truyện đã xây  dựng một tình huống đặc biệt, đó là cảnh cho chữ- một cảnh tượng từ xưa  đến nay chưa từng có, được dựng bằng bút pháp đối lập, chứa đựng yếu tố  khác thường để làm nổi bật cái đẹp, cái lý tưởng; qua đó thể hiện tính  cách nhân vật, thể hiện quan điểm của tác giả về cái đẹp 
 
Ngôn ngữ giàu tính tạo hình, sử dụng nhiều từ Hán Việt từ cổ để tạo dựng không khí thời đại và con người vang bóng. 
 
Bài khác 
I/Tìm hiểu chung 
 1.Tác giả 
  
 Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà  Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, tài tử, uyên bác,  độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn đích thực  thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền,  với nếp sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở  trường về tuỳ bút. 
  
 Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),… 
  
 2.Tác phẩm 
  
 -Xuất xứ: “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong “Vang bóng một thời”. 
  
 - Chủ đề: Tác giả ca ngợi Huấn Cao - một nhà nho chân chính - giàu khí  phách chọc trời khuấy nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan  niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp, đồng thời phải biết coi trọng  thiên lương. 
  
 II/Đọc hiểu văn bản 
  
 1. Truyện “Vang bóng  một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba  nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về  tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối  với tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả  ba nhân vật này. 
  
 2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục  quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe  ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn  võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải  chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần  thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này  cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất  rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người  có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, Suốt nửa tháng, tử tù ở  trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y  đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục  quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ  yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm  gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ,  viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến  khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là  một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề. 
  
 3. Ngục quan 
  
 - Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có  “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay”  chẳng khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà  nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. 
  
 - Lần đầu gặp Huấn Cao trong  cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại còn có “biệt nhỡn” đối  riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ  lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông. 
  
 - Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn  châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng  lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý”  rồi lui ra. 
  
 - Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách  thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà  riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống  trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước  nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản  ngục khổ tâm nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm  thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt  tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung  dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà  chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính  cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người  tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích  cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan,  Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các  người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở  thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong  thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch,  còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ  biệt nhỡn liên tài là ngục quan. 
  
 - Trong cảnh cho chữ có một  hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba  đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.  Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang  chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những  đồng tiền kẽm đánh dấu cô chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục  quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê  muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật  đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm  hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có. 
  
 - Có thể, sau khi  Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ,  “tìm về nhà quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện  cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng  nhiều nét vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả  màu”. Một con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử  tù, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta “là mặt nước  ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong kiến suy  tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan  đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề  tác phẩm. 
  
 4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn. 
  
 a 
 - Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà  vùng tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó luôn…”,  “một tên tù có tiếng là…”, và “thầy có nghe người ta đồn…” - Đó là một  con người không phải tầm thường! 
  
 - Ngục quan và viên thơ lại  mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ: “Người đứng  đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và  rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”… 
  
 - Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó  là bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo  ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu. 
  
 b 
 - Là một nhà nho kiệt  hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang.  Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một  cái “rỗ gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta  muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”.  Không phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế  đâu? 
  
 c 
 - Coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền  uy mà “ép mình viết bao giờ?”. Chữ thì quý thật? Nhất sinh ông mới viết  hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ  đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm,  thể hiện một lý tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lý cao đẹp. Chữ  của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta  ngưỡng mộ và kính phục. 
  
 d 
 - Với Huấn Cao thì thiên lương là  ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm  phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người  biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà  khi nghe viên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn  Cao đã ân hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên  hạ”. Cảnh “cho chữ” được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một  không khí thiêng liêng bi tráng. Phóng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám.  Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi  xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo  gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn  rõ ràng” hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung.  Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung.  Một cử chỉ “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta  khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở  đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành  vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn  Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới  biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời. 
  
 Ở con người Huấn Cao,  từ cử chỉ, hành động đến ngông ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều  toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ  sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ  biệt nhỡn liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng  hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn  cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình  tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ  kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học  lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy. 
  
 III/Tổng kết 
  
 Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “…  văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ  thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc  họa tính cách nhân vật… hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân  vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một cảnh tượng  xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên  lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường,  tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản,  thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ  kính và bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm  uyên bác về lịch sử, về xã hội. 
  
 Hai câu văn: “Thiếu chút nữa  ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái  lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong  các viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!  
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |