Đề 29: Phân tích đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng “…Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Đề : Phân tích đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng  
“…Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,  
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”  
 
Bài làm  
   Tây Tiến” là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm  
xưa,  những  anh  hùng  buổi  đầu  kháng  chiến  “  áo vải  chân  không  đi  lùng  giặc  đánh”  (“Nhớ”  –  
Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.   
   Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy  
thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc – Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” (Mắt  
người Sơn Tây – 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và  
chiến đấu ở thượngnguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa, trên dải biên  
cương  Việt  –  Lào.  Quang Dũng  là một  đại  đội  trưởng  trong  đoàn binh Tây  Tiến,  đồng  đội  anh  
nhiều người là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ “Tây Tiến” nói lên  
nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng  
núi nhớ chơi vơi…”  
   Bài  thơ gồm có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ,  nhớ sông  Mã, nhớ núi rừng  miền Tây,  
nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ… Đoạn thơ  
trên đây gồm có 16 câu thơ, là phần 2 và phần 3 của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời  
gian khổ, những hình ảnh đầy tự hào về đồng đội thân yêu.   
   Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên  
đời”, người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:   
  
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói  
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”  
  
   Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng,  
của  Mai Châu,… và hương của tình thương mến.   
  Mở  đầu  phần  hai  là sự nối  tiếp  cái hương vị  “thơm nếp  xôi”  ấy.  “Hội  đuốc  hoa”  đã  trở  
thành kỉ  niệm đẹp  trong  lòng nhà  thơ,  và  đã trở  thành hành  trang  trong  tâm hồn  các chiến  binh  
Tây Tiến:   
  
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,  
Kìa em xiêm áo tự bao giờ  
Khèn lên man điệu nàng e ấp  
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”  
  
  “Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn  
học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều – 3096). Quang Dũng đã có một  
sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến.  
“Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn,  
tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em”, của “nắng” làm cho hội đuốc hoa  
mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những  
cô phù xao Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng  
khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là đại từ để trỏ, đứng  
đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ,  
mọi thử thách,… như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.   
   Xa  Tây  Tiến mới  có  bao  ngày  thế  mà  nhà  thơ  “nhớ chơi vơi”,  nhớ  “hội đuốc  hoa”,  nhớ  
“chiều sương Châu Mộc ấy”. Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm  
sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:   
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy  
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ  
Có nhớ dáng người trên độc mộc  
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”  
   Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như  
một nốt  nhấn, một sự  nhắc  nhở  trong hoài  niệm  nhiều  bâng  khuâng. Nữ sĩ xưa  nhớ  kinh  thành  
Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của  
gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy  
hồn lau” trong kỉ niệm.  “Có  thấy”… rồi lại  “có nhớ”, một lối  viết uyển chuyển tài hoa, đúng là  
“câu  thơ  trước gọi câu thơ sau”  như  những kỉ niệm  trở về… Nhớ cảnh (hồn  lau) rồi nhớ người  
(nhớ  dáng  người)  cùng  con  thuyền  độc mộc  “trôi  dòng nước lũ  hoa  đong đưa”.  Hình  ảnh  “hoa  
đong  đưa”  là một  nét vẽ  lãng mạn gợi tả  cái  “dáng  người  trên  độc mộc”  trôi  theo  thời  gian  và  
dòng  hoài  niệm.  Đoạn  thơ gợi  lên một vẻ  đẹp mơ hồ,  thấp  thoáng, gần  xa, hư  ảo  trên  cái nền  
“chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp,  
thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.  
   Giữa những  “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ”  là “hồn  lau”, là  “dáng người”, là  “hoa  
đong  đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là  
siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.   
   Phần ba bài thơ nói về đoàn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng bút pháp hiện thực để tạo  
nên bức chân dung những đồng đội thân yêu của mình. Ở phần một nói về con đường hành quân  
vô cùng gian khổ để khắc hoạ chí khí anh hùng các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu miêu tả vẻ  
đẹp lãng mạn của những chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ  
dang nhớ, đang ngắm nhìn, đang hồi tưởng, đang nghĩ về từng gương mặt thân yêu, đã cùng mình  
vào sinh ra tử, nếm trải nhiều gian khổ một thời trận mạc. Như một đoạn phim cận cảnh gợi tả cái  
dữ dội,  cái  khốc  liệt một  thời  máu lửa oai  hùng.  Chủ  nghĩa  yêu nước của  dân tộc hun  đúc  qua  
4.000 năm lịch sử được nâng lên tầm vóc mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại  
Hồ Chí Minh:   
  
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc  
Quân xanh màu lá dữ oai hùm  
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới  
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”  
  
   Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong  
khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “  
Đoàn binh không mọc tóc”, “  Quân xanh  màu  lá”, tương phản với  “  dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ  
đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách  
hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà  
quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt  
vía “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần; “ Tướng sĩ kén  
tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” là tầm vóc các nghĩa sĩ Lam Sơn. “ Quân xanh màu lá dữ oai  
hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp.  
Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “   
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”; Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng “ xác thù chất đống xây  
thành chiến công”. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “ mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh  
trại có những cơn mơ đẹp: “ đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng kiều thơm” từng in  
dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “  
đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn  
năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ,  
một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc  
mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.   
  Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của  
những  anh  hùng  vô  danh  trong  đoàn  quân  Tây  Tiến.  Câu  thơ  “Chiến  trường  đi  chẳng  tiếc  đời  
xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã  
xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang:  
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ…” Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ  
trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.  
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”,  
nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như  
một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” ấy đã tạo nên không khí thiêng liêng, bi tráng và cao  
cả:   
  
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ  
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh  
Áo bào thay chiếu anh về đất  
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”  
  
   Các từ  Hán  Việt xuất hiện bất ngờ  trong đoạn thơ  (biên cương,  viễn xứ, chiến trường, áo  
bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót  
xa thương  tiếc.  Không bi lụy yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề:  
“Chiến  trường  đi  chẳng  tiếc  đời  xanh”.  Biết  bao  xót  thương  và tự  hào  ẩn  chứa  trong vần  thơ.  
Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về  
sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới  
viết được những vần thơ cảm động như thế:   
  
“Họ đã sống và chết  
Giản dị và bình tâm  
Không ai nhớ mặt đặt tên  
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”  
                                                                  (“Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm)  
  
   Những tháng năm chiến tranh đã đi qua. Đoàn binh Tây Tiến những ai còn ai mất, những ai  
đã “lấy đá ven rừng  chép chiến công”? “Cổ  lai chinh chiến kỉ  nhân hồi?” – xưa nay, buổi chiến  
tranh, mấy ai đi chinh chiến còn trở về?   
   Đoạn thơ trên đây cho thấy cái tâm đẹp và cái tài hoa của Quang Dũng. Nếu Chính Hữu,  
qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ  
“Tây  Tiến”  đã dựng  lên một tượng  đài  hùng vĩ  uy  nghiêm về  những  chàng  trai  Hà Nội  “mang  
gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời.  
Anh hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến.   
   Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang  
Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì “Tây Tiến” đã cho ta  
cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính  
– anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc  
của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	
	
  |